Đình làng Ngọc Trục thờ 5 vị thành hoàng, bao gồm 4 mẹ con nữ tướng Ả Lã Nàng Đê của Hai Bà Trưng và danh thần Đào Trực có công lớn giúp vua Lê Hoàn đánh thắng quân nhà Tống sang xâm lược nước Đại Việt.
Làng Ngọc Trục phía đông bắc giáp sông Nhuệ, phía đông nam
giáp đường Tố Hữu, phía tây nam giáp đường Đại Mỗ, ngày nay thuộc phường Đại Mỗ,
quận Nam Từ Liêm. Nhân dân chuyên về làm ruộng trồng lúa và gần đây lại nổi
tiếng về đào Tết.
Trước kia dân Ngọc Trục có nghề nông kết hợp với đan bồ, đan
cót, vì thế tên làng còn được gọi là Dộc Bồ. Nơi đây lúc đầu vốn là một khối thống
nhất cùng với phần làng nhỏ hơn bên bờ bắc sông Nhuệ, về sau chia thành
hai thôn độc lập, gồm Dộc Cả (tên chữ Thượng Thư, đầu thời Nguyễn đổi thành Thượng
Văn) và Dộc Bé (tên chữ là Trung Văn).
Theo sổ Địa bạ đời vua Gia Long thì diện tích đất canh tác
năm 1805 đo được 320 mẫu ruộng. Năm 1928, cả hai làng Dộc có 1675 dân, trai
đinh chia thành bốn giáp, cùng thuộc xã Ngọc Trục. Ban đầu họ Bạch chiếm số
đông trong làng.
Đình Ngọc Trục. Photo: NCCong ©2018
Đình làng Ngọc Trục thờ 5 vị thành hoàng, bao gồm 4 mẹ con nữ
tướng Ả Lã Nàng Đê của Hai Bà Trưng và danh thần Đào Trực có công lớn giúp vua
Lê Hoàn đánh thắng quân nhà Tống sang xâm lược nước Đại Việt.
Cổng đình Ngọc Trục. Panorama ©NCCong 2015
Ngày 31-01-1992 đình [và chùa Đại Phúc trong làng] đã được Bộ
Văn hóa—Thông tin xếp hạng là Di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia.
Kiến trúc và di vật
Đình Ngọc Trục tọa lạc trên mảnh đất cao ở gần cổng phía bắc
làng cũ. Mặt đình quay về phía đông bắc nhìn ra sông Nhuệ. Sau bức bình phong
đắp cuốn thư trên tường bao của một ao vuông nhỏ là cổng đình xây kiểu trụ biểu
ở giữa, hai bên có cổng phụ.
Phương đình Ngọc Trục. Photo NCCong ©2018
Du khách bước vào một sân nhỏ sẽ thấy giữa 2 nhà giải vũ là
tòa phương đình xây chồng diềm 2 tầng 8 mái 4 cột, các đầu đao cong thanh thoát
rất đẹp. Tòa đại bái gồm 3 gian 2 dĩ, đầu hồi bít đốc, kết nối với hậu cung 4
gian theo hình chữ “Đinh”. Đáng tiếc trong khuôn viên đã bị lấn chiếm đến sát
đình thì cổ thụ cũng không còn và nhà dân mọc lên lô nhô xung quanh.
Trong đình vẫn lưu giữ được một đạo sắc ghi niên đại Cảnh
Trị thứ 8 (1670), theo đó vua Lê Huyền Tông phong thành hoàng làng là Ả Lã Nàng
Đê (một vị nữ tướng thời Hai Bà Trưng) và 3 người con của bà. Các hiện vật và mảng
chạm khắc còn lại mang niên đại nhà Lê Trung hưng và nhà Nguyễn, từ thế kỷ XVII
đến đầu thế kỷ XX.