Đức ông Lê Viết Hưng cùng em trai Lê Viết Quang tình nguyện theo vua Đinh Bộ Lĩnh, hưng binh trấn giữ vùng châu thổ, đánh thắng nhiều trận ở vùng Chí Linh, Thanh Lâm. Do có công với nước, hai ông được Vua Đinh phong tước, nhân dân lập đền thờ tôn làm Thành hoàng làng Ngọc Uyên, Hải Dương.
Đức Thánh Cả Lê Viết Hưng được phong là Đương cảnh thành
hoàng quan hà Đại vương "Trưởng tả đạo binh nhung kiêm tham tán mưu sự".
Đức Thánh Hai Lê Viết Quang được phong là Dương cảnh thành
hoàng Đinh triều phong tước "Thiếu tử Thái Bảo tiền quân". Hai Ông được
đặt tên 2 tuyến đường ở thành phố Hải Dương.
Đình Ngọc Uyên thuộc Phường Ngọc Châu, thành phố Hải Dương.
Ngôi đình xưa đẹp đến mức bia "Ngọc đình bi ký" được lưu giữ trong
Đình làng Ngọc Uyên tả việc xây cất đình với rất nhiều mỹ tự:
... "Ngôi đình ở phía đông thành Phượng, đó chính là
Đình Ngọc Uyên. Bao quanh đình hai bên tả hữu là sông Thái Bình. Xa xa cảnh đẹp
thu vào tầm mắt là án Ngọc Lặc cao chót vót. Phía trước giao lưu chảy xiết với
sông Lục Đầu. Phía sau cây cối tươi tốt xum xuê. Nổi gần đẹp mắt đó là điền Triều
(ruộng Triều). Trên dưới phì nhiêu tươi tốt. Nghìn cây cổ thụ râm mát là nơi
chim chóc tụ hội véo von. Đường rộng thênh thang, ngựa xe qua lại tấp nập. Ngôi
đình quả là một danh lam thắng cảnh vậy"…
Làng Ngọc Uyên (tên Nôm là làng Đũi) xưa còn một ngôi văn chỉ
cạnh đình Ngọc Uyên bây giờ. "Từ chỉ bi ký" - Bia ghi công đức của Hội
tư văn bản xã có bài minh chép hai câu như sau:
Thanh Lâm thắng địa đệ nhất Ngọc Uyên.
Văn phong sơ trấn đạo mạch vĩnh chuyền
Nhân tài thế xuất khoa giáp bộ niên
Bi thành chi hậu phúc hưởng ức niên
Dịch nghĩa rằng:
Đất Ngọc Uyên là nơi thắng cảnh đẹp nhất huyện Thanh Lâm
Văn hóa phong tục thuần hậu nổi tiếng mạch đất mãi lưu truyền
Nhân tài xuất thế qua các khoa giáp đều kế tiếp nhau đỗ đạt
Ghi lại trên bia để muôn đời, phúc hưởng ngàn năm.
Vào thế kỷ 19, địa danh Ngọc Uyên xã, Trác Châu tổng, Thanh
Lâm huyện, Nam Sách phủ, Hải Dương trấn trong mắt người bản địa là vậy. Đủ thấy,
mảnh đất này có sức hấp dẫn thật mạnh mẽ.
Làng Ngọc Uyên nằm ở ngã ba sông Thái Bình và sông Kẻ Sặt
(vì vậy mới có tên gọi ngã ba Tam Giang). Sông Thái Bình nối sông Văn Úc đổ ra
biển tạo nên thế trận vô cùng lợi hại khiến các triều đại phong kiến trong lịch
sử không thể không tận dụng để tác chiến bằng đường thủy trong các trận chiến với
phong kiến phương Bắc.
Từ thời Hai Bà Trưng các tướng lĩnh của Hai Bà đã từng giáp
mặt và huyết chiến với quân tướng nhà Hán trên khúc sông này. Tướng của Tô Định
là Mã Giang Long đã từng bị nữ tướng Ngọc Tuyền chém chết tại đây, vô số quân
tướng giặc bỏ thây, buộc Tô Định phải lui quân về Bắc Giang cố thủ.
Thời Đinh, họ Phạm có công giúp Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn 12
sứ quân. Thời Trần, quân tướng Hưng Đạo Đại Vương từng hành quân qua đây trên
những chiến thuyền, hợp quân thủy bộ đánh tan quân Nguyên bằng trận huyết chiến
cuối cùng trên sông Bạch Đằng…Chỉ với trên 6km đường sông trên ngã ba sông Thái
Bình - Kẻ Sặt, sử sách đã từng ghi lại bao chiến công oanh liệt của cha ông ta
trong các trận chiến chống giặc ngoại xâm.
Đình Ngọc Uyên thờ hai đức thành hoàng làng là Lê Viết Hưng
và Lê Viết Quang. Ngọc phả và truyền thuyết để lại cho biết:
Thân phụ sinh ra hai vị là Ông Lê Viết Đức và Bà Bùi Thị
Nguyên, nguyên quán tại thôn Gôi, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Vốn xuất thân
nghèo khó, lại hiếm muộn đường tử tôn nên ông bà rời cố hương tìm nơi đất lành
sinh sống, dạt tới làng Ngọc Uyên. Gặp nơi đất tốt, bằng phẳng lại phì nhiêu
cây cối xanh tươi, sông nước thuận hòa bèn xin ngụ lại sinh sống.
Bỏ công khai phá đất hoang, trồng lúa, đánh bắt cá tôm sinh
sống, cùng bà con bản địa lập nên điền trại. Tại đây, thuận ý trời bà sinh đôi
hai trai, tướng mạo khôi ngô, tuấn tú.
Hai cụ đặt tên một người là Lê Viết Hưng, một người là Lê Viết Quang.
Nhị vị càng lớn càng vạm vỡ, khỏe mạnh. thân hình cao lớn,
trí tuệ khác người, văn chương toàn thiện, võ nghệ tinh thông.
Năm 930, Vua Nam Hán đem quân xâm lược nước ta. Không chịu nổi
ách đô hộ, khắp nơi nhân dân nổi dậy khởi nghĩa. Năm 939, Ngô Quyền được nhân
dân và tướng sĩ ủng hộ đánh bại quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, mở ra kỷ
nguyên thống nhất cho đất nước.
Năm 944, Ngô Quyền mất, triều chính rối loạn, dẫn đến họa 12
sứ quân làm dân tình hỗn loạn, cuộc sống chìm đắm trong khổ đau. Từ đất Hoa Lư
(Ninh Bình) Vua Đinh Bộ Lĩnh phất cờ nghĩa dấy binh dẹp loạn được nhân dân hưởng
ứng. Hòa cùng bách thứ, dân làng Ngọc Uyên cũng đóng góp nhân tài vật lực với
mong muốn sớm phục hưng đất nước.
Hai anh em Lê Viết Hưng và Lê Viết Quang tình nguyện theo vua
Đinh Bộ Lĩnh, hưng binh trấn giữ vùng châu thổ, đánh thắng nhiều trận ở vùng
Chí Linh, Thanh Lâm. Do có công với nước, hai ông được Vua Đinh phong tước,
nhân dân lập đền thờ tôn làm Thành hoàng.
Ngôi đình đã được sơn son thếp vàng toàn bộ đại tự, câu đối, hoành phi
Đức Thánh Cả Lê Viết Hưng được phong là Đương cảnh thành
hoàng quan hà Đại vương "Trưởng tả đạo binh nhung kiêm tham tán mưu sự"
.
Đức Thánh Hai Lê Viết Quang được phong là Dương cảnh thành
hoàng Đinh triều phong tước "Thiếu tử Thái Bảo tiền quân".
Ngày nay, trong đình còn lưu lại đôi câu đối nguyên văn như
sau:
Đinh triều lưỡng tướng phù quốc chí nam nhi
Văn võ toàn tài cứu dân trang Việt sử
Nghĩa là:
Triều Đinh hai tướng phù Vua giúp nước tỏ rõ chí nam nhi.
Văn võ tài giỏi vẹn toàn, cứu dân (công) trạng được ghi
trong sách sử nước Việt.
Trong gian hậu cung, còn đôi câu đối ca ngợi công đức nhị vị
thành hoàng nguyên văn như sau:
Phù quốc an dân dực anh linh vu ngọc địa
Trừ gian thảo tặc phấn uy vũ ư Hoa Lư
Nghĩa là:
Giúp nước, bảo vệ dân yên, sự anh linh hiển ứng nơi đất Ngọc
Giết giặc trừ gian, uy vũ oai phong lẫm liệt phấn phát tại
Hoa Lư
Đình Ngọc Uyên được xây nên từ bao giờ không rõ, trước vốn
được dựng ở giữa làng về phía Nam, thuộc xóm Giếng Quan. Đây vốn là khu đất trũng
lầy lội, không được thoáng đãng, bất tiện cho việc đi lại thăm viếng, thờ cúng.
Sau được di về địa điểm ngày nay (đầu làng) cao ráo, thoáng
mát. Theo các cụ cao niên trong làng, khu đất này đắc địa bởi thế đầu rồng,
ngôi đình nằm chính trán rồng, chếch phía trước cửa đình về phía đông nam khoảng
200m có hai ao tròn tựa mắt rồng. Lại có ý cho rằng, đình làng có thế "rồng
chầu hổ phục", có thể trường tồn mãi mãi.
Tuy khó xác định năm khởi dựng đình, song căn cứ tài liệu hồ
sơ di tích do Bảo tàng Hải Hưng lập thì thời gian di chuyển đến địa điểm hiện
nay đồng thời cũng là một đợt trùng tu lớn được thực hiện vào năm Tự Đức thứ
hai, tháng tư năm Kỷ Dậu (1849)- như dòng chữ khắc trên Thượng lương ghi rõ:
"Hoàng triều Tự Đức thứ hai năm Kỷ Dậu tháng tư". Thời gian trùng tu
mở rộng tòa tiền đường từ 3 gian thành 5 gian như ngày nay vào năm Duy Tân thứ
6 Nhâm Tý (1912).
Quả chuông đồng cổ có đường kính 0,4 m, cao 0,6m được đúc vào năm 1915
Đình Ngọc Uyên hiện còn giữ được khá nhiều cổ vật quý thuộc
đủ các chất liệu, nổi bật có quả chuông đồng đường kính 0.40m, cao 0.60m có ghi
dòng chữ " - Khí cụ chung của đình Ngọc Uyên" được đúc vào năm Duy
Tân thứ 9; 17 tấm bia hậu ghi công đức người có công tu bổ di tích; 12 đạo sắc
phong của các triều đại phong kiến, sớm nhất
vào thời Cảnh Hưng - 1783, muộn nhất vào thời Khải Định - 1924. Đồ thờ bằng
gỗ điển hình như nhang án thờ tại đình ngoài, bát hương cổ, hai cỗ long đình,
hai cỗ kiệu bát cống sơn son thếp vàng, hai cỗ ngai thờ...
Tài liệu "Thần tích - thần sắc" làng Ngọc Uyên do
Lý trưởng sở tại khai vào 31 tháng 3 năm 1938 mô tả việc tế lễ như sau:
Tế lễ các dịp: ngày sinh thần thành hoàng vào 16 tháng
giêng, ngày thánh hóa là 2 tháng 11, ngày khánh hạ 6 tháng 10 làm lễ ca khúc khải
hoàn (hay còn gọi là Lễ hội thắng trận khao quân).
Việc tế lễ, hội hè được các cụ cao niên kể lại tuần tự như
sau:
- Vào dịp 15 đến 17 tháng Giêng, kỷ niệm sinh nhật Thành
hoàng, là lễ kỳ phúc đồng thời là dịp làng vào đám.
- Ngày 14 làng mở cửa đình, bao sái đồ thờ, dọn dẹp, lau
chùi, chuẩn bị đồ tế tự và các công việc khác. Chiều ngày 14 tế yết có 2 thủ lợn,
2 phương xôi nén, rượu, trầu, hoa quả.
- Trưa ngày 15 (chính ngọ) tế nhập tịch. Làng có 5 giáp
(Đông Hào, Tây Hào; Tiền Đình, Khang Phụ, Tân Phú), mỗi giáp mang lễ vật dâng
thánh là 1 con lợn sống, cùng xôi nén, rượu, hoa quả. Lợn tế mỗi năm, người được
phe giáp cắt cử làm "tế đám" phải tự nuôi 2 "ông lợn". Ông
"tế đám" sẽ được làng giao cho ruộng công cày cấy lấy hoa lợi lo chuẩn
bị lễ vật dâng Thánh.
Từ lúc nhập chuồng đến khi thành vật tế đều được danh xưng hộ
là "Ông lợn", được nuôi chuồng riêng, chế độ ăn uống đặc biệt và được
chăm sóc, tắm rửa sạch sẽ thường xuyên, nếu lợn ốm, bỏ ăn thì không được dùng
thuốc chữa mà biện cơi trầu kêu Thánh là khỏi. Lợn phải nặng từ 70 cân trở lên.
Ông to làm tế đám, ông nhỏ làm thịt để mời phe giáp ăn cùng ngày lễ hội 16
tháng giêng.
Khi đưa vào tế, lợn sống mổ phanh được để nguyên con, nằm úp
trên bàn, toàn thân được bôi tiết cho đỏ hồng lên, lá mỡ chài (được bóc từ dạ
dày lợn) được phủ lên che kín đầu lợn, và cắm hương lên trên. Khuôn xôi được
đóng nặng bằng trọng lượng của "ông lợn" tế. Sau khi tế xong, mọi người
thụ lộc tại đình.
- Ngày 16 là ngày đại lễ, ngày chính tế, từ sáng đoàn rước của
làng với cờ, biển, tán lọng, nghi trượng rầm rộ rước kiệu thánh đi vòng quanh
làng rồi trở về đình. Đến giờ Ngọ, làng tổ chức tế. Trong khi tế, nếu ai phạm lỗi
hay người tế làm sai động tác thì bị cắm thẻ tre trên đầu (cổ áo), bị làng phạt
tiền và phải có cơi trầu kêu thánh và xin làng, tiền đó chi dùng vào việc hương
đăng ở đình. Tế xong đồ lễ chia về các giáp.
- Ngày 17 tháng giêng có hai khóa tế:
+ Tế tạ vào buổi trưa hay còn gọi là tế tán tịch.
+ Tế tiễn vào buổi chiều, tế tiễn quan "đương niên hành
khiển". Việc tế được cử hành ngoài sân đình tùy từng năm, bàn tế được bày
theo các hướng Đông - Tây - Nam - Bắc. Tế từ giữa sân đình vào đến cửa nội
cung.
Đội hình quan tế có thêm 2 ông Thông xướng Đông, Tây dẫn
quan viên tế và xướng thay cho 2 ông Đông, Tây điển tiếp lời tế.
Sau đó rước bát hương Thành hoàng trở lại miếu đền Thượng tế
an vị và để lại bát hương thờ Thánh tại đó. Buổi chiều, tổ chức tế tạ trong
đình (gọi là tế nội tán) dùng 6 con lợn sống (5 con của 5 giáp và 1 con để làng
biếu các quan viên dự tế). Sau khi tế xong, làng biếu phần tế cho các quan viên
dự tế, ông chủ tế được biếu thủ lợn, ông đọc văn được cái khoanh bí, hai ông củ
soát được 2 cái chân trước hai ông Đông điển, Tây điển (hay Tây xướng, Đông xướng)
và bồi tế, cùng các quan viên hàng dòng, mỗi người được một miếng thịt lợn.
Sau khi tế tạ, làng còn tổ chức cúng lục đạo chúng sinh do
thày cúng đảm nhiệm, đồ lễ có quần áo, tiền vàng, các thứ bánh đa, khoai lang,
ngô, cháo lá đa. Cúng xong, mọi người cùng ùa vào cướp cháo thí để lấy lộc. Sau
đó làng đóng cửa đình, rã đám.
- Ngày 6-10 (âm lịch) kỷ niệm ngày các vị Thành hoàng thắng
trận trở về- Lễ hội thắng trận khao quân. Lễ trong dịp này kéo dài 3 ngày: Ngày
mùng 4, mở cửa đình, dọn dẹp, chuẩn bị. Ngày mùng 5 tháng 10, buổi chiều tế yết
Khải thánh phụ, Khải thánh Mẫu ở Đền Trung. Ngày mùng 6 tế chính có thủ lợn,
xôi nén và các thứ hoa quả, trầu rượu. Xưa, lễ này thường được tiến hành trên đất
Thanh Lâm xưa.
- Ngày 12-11 (âm lịch) là ngày Thánh hoá, tổ chức tế kỵ
Thánh, làng chỉ tổ chức lễ 1 ngày với thủ lợn, mâm xôi, hoa quả, trầu rượu. Tế
xong, quan viên thụ lộc tại đình và chia phần về các giáp. Cuối ngày đóng cửa
đình.
Ngoài ra trong năm còn các lễ theo thời tiết như: Thượng điền
ngày 15-7; hạ điền ngày 1-5.
Lễ hội làng Ngọc Uyên xưa nổi bật với lễ rước thánh tổ chức
vào ngày 16 tháng Giêng: Đi đầu là đội múa lân - đội cờ thần, bát bửu, chấp
kích - phường bát âm - kiệu bằng khiêng “ông lợn” cùng các lễ vật dâng Thánh -
kiệu long đình thứ nhất có lọng che - kiệu bát cống rước ngai và bài vị đức
Thánh Cả Lê Viết Hưng có tán vàng che trên đầu và 2 quạt vải che hai bên - quan
viên tế - rồi đến kiệu long đình thứ hai có lọng che - kiệu bát cống thứ hai rước
ngai và bài vị đức Thánh Hai Lê Viết Quang cũng có tán và 2 quạt vải che - quan
viên tế - các chức sắc, lão làng, hội tư văn và nhân dân theo sau. Đoàn rước khởi
hành từ đình, theo đường cái nghinh thần về miếu đền Thượng rồi lại rước về
đình.
Chuyện lễ vật dâng thánh bằng "ông lợn", "gà
cánh tiên" có thể được coi là những sản vật lễ thánh khá độc đáo của hội
Đình Ngọc Uyên mà không phải nơi nào cũng có.
Phần hội xưa khá phong phú. Trò chơi dân gian có các trò bơi
lội, cầu thùm, bắt vịt, vật, cờ tướng, tổ tôm điếm, tam cúc điếm. Khi trước,
khu sinh thái Đồng Xanh bây giờ còn là khu đất rất rộng dân làng thường tham
gia trò chơi như đánh đu, vật, kéo co... Các phường hát từ Tứ Kỳ được mời sang
diễn các tích tuồng, chèo.
Lễ hội Đình Ngọc Uyên ngày nay chỉ tổ chức vào tháng giêng,
có tiết giảm đôi chút so với trước, song vẫn giữ được bản sắc xưa. Lễ hội tập
trung vào dịp 15 đến 17 tháng Giêng: ngày 15 tế nhập tịch, có 2 thủ lợn, xôi
nén, hoa quả, bánh kẹo, trầu rượu. Ngày 16 có thủ lợn, xôi nén, hoa quả, bánh kẹo,
oản.
Còn dịp 6-10 và 12-11 tuỳ từng năm có thể có thủ lợn hoặc chỉ
có thịt lợn miếng, gà cùng các thứ hoa quả, bánh kẹo, trầu rượu. Lễ hội có sự
tham gia của nhân dân 6 khu dân cư thuộc phường Ngọc Châu: khu 7, 11, 12, 13,
14, 15 với gần 200 người phân công vào các việc cụ thể, cùng học sinh, giáo
viên của 2 trường phổ thông nằm trên địa bàn phường, các hội, đoàn thể trong
phường.
Đoàn rước tuần tự gồm: Đội kỳ lân - đội hồng kỳ - cờ nằm -
kiệu ảnh Bác - kiệu bằng di tích lịch sử- đội hình giáo viên các trường - đội
bát bửu 1 - đội chiêng, trống - kiệu long đình 1 có lọng che - kiệu bát cống 1
rước ngai và bài vị đức Thánh Cả có tán và 2 quạt vải che - đội tế nam - đội
bát bửu 2 - kiệu long đình 2 có lọng che - kiệu bát cống 2 rước ngai và bài vị
đức Thánh Hai có tán và 2 quạt vải che - đội tế nữ - đội hình nhân dân. Kiệu Đức
Thánh cả và kiệu Đức Thánh Hai khi rước mỗi kiệu đều được che bởi một quạt rủ cắm
trực tiếp sau long ngai.
Đoàn rước từ cửa đình đi theo đường Nguyễn Hữu Cầu ra ngã ba
Phú Lương, theo đại lộ Trần Hưng Đạo về qua cửa UBND phường Ngọc Châu, theo đường
Trần Thánh Tông về đình.
Đình có đội tế nam 17 người, đội tế nữ cũng 17 người. Sau
khi đội nam tế xong thì đội nữ vào dâng hương.
Phần hội vẫn thu hút các kỳ thủ tham gia các bàn cờ tướng,
chọi gà, kéo co, đập niêu, ném bóng, múa lân, vật, đốt pháo bông. Các hoạt động
thể thao quần chúng như: bóng chuyền, cầu lông, đồng diễn thể dục dưỡng sinh của
các cụ hội người cao tuổi, bóng đá phong trào... Tối có giao lưu văn nghệ chèo,
quan họ, ca nhạc, hát mới.
Tâm nguyện của các bậc
cao niên trong khu, các cụ còn mong muốn được khôi phục lại miếu tư văn xưa (văn
miếu) để tôn vinh người đỗ đạt xưa và nay, làm đẹp thêm truyền thống khuyến học
của địa phương. Trước mắt, các cơ quan hữu quan, cùng với chính quyền và nhân
dân phường Ngọc Châu cần quy hoạch khu vực bảo vệ di tích, quy hoạch đường rước
cho đường thông, hè thoáng, dây điện, cành cây gọn gàng để việc rước thánh được
thực hiện suôn sẻ, trang trọng.