Đình Phú Lương ở xã Quảng Phú Cầu (huyện Ứng Hoà) thờ vị phúc thần tên là Bạch Lợi, ông là vị tướng giỏi dưới quyền chỉ huy của Cao Sơn Đại vương và Quý Minh Đại vương thời Hùng Vương thứ 18.
Đình Phú Lương là công trình văn hóa cổ truyền, thuộc kiến
trúc vào thời Nguyễn, hệ thống kiến trúc còn đẹp, vững chãi, bài trí đồ thờ bên
trong phong phú về thể loại, đẹp về trang trí mỹ thuật. Với những giá trị đó,
ngày 18/5/1993, Bộ Văn hóa – Thông tin đã cấp bằng di tích lịch sử văn hóa quốc
gia cho đình làng Phú Lương.
Hiện nay, trong đình còn lưu giữ một cuốn thần phả được Nguyễn
Bính và các đại học sỹ làm ở Viện Hàn lâm phụng soạn niên hiệu là Hồng Phúc Tam
Niên năm 1674. Cuốn thần phả được phụng sao lại chính bản vào năm Cảnh Hưng
1755, sau đó lại sao vào năm Tự Đức thứ 5 (1852), điều này phản ánh ý thức
trách nhiệm của các thế hiện người dân làng thôn Phú Lương đối với vị thần của
làng.
Thần Bạch Lợi là người tiên phong tập hợp dân chúng làm thủy lợi,
khai phá vùng đất đồng lầy thuộc xã Quảng Phú Cầu huyện Ứng Hòa ngày nay. Ông
là người có công dựng đồn binh chống giặc ngoại xâm, giúp dân chúng trong làng
canh tác, đời sống nhân dân ấm no.
Với công lao to lớn trên, sau ngày ông mất, dân làng đã lập
đền thờ, tôn ông là vị phúc thần làm thành hoàng phù trợ cho dân làng. Hiện
nay, đình Phú Lương còn lưu lại 7 đạo sắc phong của các triều nhà nước phong kiến
Việt Nam ban cho vị thần Bạch Lợi, xếp vào loại “Cảm ứng thống hiển phong công
hậu đức. Uy liệt thông minh chí hùng lược, Bạch Lợi đại vương nguyên thuộc
chính thần”.
Đình có diện tích là 1408 m2, ở địa thế linh kiệt, phía trước
có con lạch, có nước quanh năm, hiện nay, mới khai thành sông, mặt nước mênh
mang, soi tòa đình cổ kích, rõ là cảnh hữu tình. Tới thăm di tích còn được qua
chiếc cầu nhỏ, đường làng uốn cong thành khúc thần rồng. Quanh đình có cây cổ
thụ và tường bao quanh tạo nên khuôn viên đình chặt chẽ và lại thoáng đãng.
Trước cửa đình là sân gạch, vườn cảnh rộng thoải dần xuống
mép nước sông, hướng của đình ngoảnh về phía Tây ghé Nam. Về kiến trúc mặt bằng,
làm theo kiểu chữ “Đinh”, có 5 gian đại bái phía ngoài và 3 gian hậu cung. Kiến
trúc các vì kèo đình Phú Lương theo kiểu chồng rường, gửi chiêng và trên xà
nách, kẻ bẩy hậu và hiên. Đây là kiểu kiến trúc phổ biến ở đình thời Nguyễn.
Tòa đại bái có 5 vì kèo, làm theo 3 hàng cột. Mỗi hàng đó có 6 cột, trong đó, 4
trụ chính ở gian giữa đường kính khoảng 40 cm. Cột kê trên khúc gỗ vuông dưới
là bệ tảng đá xanh hình tròn. Hệ thống cột xẻ đầu để liên kết với xà dọc tạo
thành khung kiến trúc đình. Đây là những nét cơ bản của kiến trúc truyền thống
cổ thời Nguyễn.
Trong hậu cung có những tảng đá kê chân cột hình trống đồng
có thắt cổ hồng, thân bệ trang trí hoa văn xen gạch nom chắc chắn và duyên
dáng. Trong đình có ghi niên đại “Hoàng triều Duy Tân bát niên…” đó là năm 1914
làm lại ngôi đình với kiến trúc và ở vị trí hiện nay. Nghệ thuật điêu khắc tập
trung ở trên các bức cốn, những tác phẩm này đều có niên đại thời Nguyễn.
Các hiện vật thờ cúng đều chạm khắc cầu kỳ, trong đó, ngai
thờ bài vị, kiệu bát cống, khám thờ, hạc gỗ, án gian, giá văn, sập thờ. Trên
các đồ thờ đều trang trí mô típ Tứ linh. Các con rồng có đặc điểm chung nhất là
đầu to, dáng gồ ghề, bờm tóc xoáy, có sừng, mắt to sáng quắc. Mọi hiện vật trên
đều được phủ lớp sơn son thếp vàng lộng lẫy. Đặc điểm nghệ thuật điêu khắc trên
vào thời Nguyễn.
Hàng trăm năm qua, chính quyền và nhân dân sử dụng di tích
vào chức năng văn hóa đó là nơi hội họp của các tổ chức, HTX và nhân dân. Hàng
năm, tại đình còn mở hội truyền thống của làng, các lễ hội diễn ra với tinh thần
vui tươi, lành mạnh, tiết kiệm động viên được quần chúng noi theo truyền thống
tốt đẹp của các bậc tiền nhân, hăng hái lao động sản xuất xây dựng quê hương
giàu đẹp.