Đình Phú Mỹ, xã Tự Lập, huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội thờ phụng hai vợ chồng nhị tướng Hùng Bảo và Trần Nương triều đại Nhị vua Hai Bà Trưng. được xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia.
Truyền thuyết theo thần phả
Vào thời thuộc Hán, bộ chủ Hải Dương là Hùng Trọng và vợ là
Trương Quyền sinh hạ được một người con trai, đặt tên là Hùng Bảo. Năm Hùng Bảo
lên 10 thì cha mất, Hùng Bảo làm bộ chủ thay cha, nhờ tài năng, đức độ mà được
hào kiệt khắp nơi tìm về quy phục. Năm 21 tuổi thì mẹ qua đời.
Một năm sau, Hùng Bảo đi chu du khắp nơi, đến huyện Chu Diên
thì được Trần Công gả con gái là Trần Thị Nương làm vợ; đến ngày cưới thì bị
Đinh Công Dũng, một hào phú địa phương, đem 100 người đến cướp dâu, Đinh Công
Dũng bị Hùng Bảo chém chết, gia binh chạy toán loạn. Cử hành xong đám cưới, đức
ông Hùng Bảo đưa vợ về Hải Dương.
Năm Giáp Ngọ, Hán Thế Tổ sai Tô Định sang làm thái thú Giao
Châu; Tô Định vô cùng bạo ngược, tàn sát, áp bức dân lành. Bè đảng của Đinh
Công Dũng cấu kết với quân Hán, bắt giết Trần Công. Được tin cấp báo, vợ chồng
Hùng Bảo, Trần Nương kéo quân về giải cứu nhưng không kịp, đành an táng cha tại
trang Thái Lai, nay là thôn Thái Lai, xã Tiến Thắng và cho lập cung ở đó để
canh gác mộ phần Trần Công, hiện bây giờ là đền Thái Lai. Tướng Hùng Bảo đóng
hành cung ở Tuyền Liệt thuộc thôn Phú Mỹ, xã Tự Lập hiện nay.
Thù nhà, nợ nước, hai vợ chồng Hùng Bảo, Trần Nương đã chiêu
dụ hào kiệt, anh tài được hơn 300 người. Đội thị vệ do Trần Nương chỉ huy có 42
nữ tướng tài giỏi cùng chí hướng chống giặc Hán. Hoạt động của hai vợ chồng anh
kiệt Hùng Bảo, Trần Nương nổi tiếng khắp vùng. Các anh hùng, hào kiệt trong
vùng đều khâm phục. Bấy giờ trong huyện có hai chị em Bà Trưng dòng dõi Vua
Hùng. Trả thù nhà, đền nợ nước Nhị chúa Trưng Trắc với lòng căm thù giắc Hán
sâu sắc đã chiêu nạp binh mã cho cuộc khởi nghĩa.
Biết tin vợ chồng Hùng Bảo cùng chí hướng, chúa Trưng Nhị đã
mang hịch đến chiêu dụ (hôm ấy là ngày 11-8 năm Canh Tý). Hùng Bảo rất phấn khởi
liền tập hợp hết tráng sĩ, gia thần được 500 người và đội quân của Trần Nương gồm
251 nữ binh đến hội quân cùng nhị vua Hai Bà Trưng. Trưng Nữ vương cả mừng cho
khao thưởng quân sĩ.
Phong cho Hùng Bảo làm Tiết chế tiền quân, Trần Nương làm
trưởng lĩnh quân trung nữ binh. Sau đó Nhị vua Hai Bà Trưng làm lễ tế cáo trời
đất, thần linh rồi chia binh 2 đạo thủy bộ tiến đánh Tô Định. Quân Tô Định thảm
bại phải tháo chạy về nước. Nghĩa quân thừa thắng thu lại 65 thành trì trên
toàn cõi nước Nam. Trưng Trắc lên ngôi vua, xưng là Trưng Vương, sắc phong cho
ông Hùng Bảo là Thiên Bảo hộ quốc đại vương, sắc phong cho Trần Nương là Ả
Nương hoàng công chúa. Tất cả các tướng sĩ khác đều được phong thưởng.
Đất nước thái bình, Hùng Bảo xin vua cho về cung ấp. Trưng
Vương ưng thuận, lại ban thưởng cho vợ chồng Hùng Bảo 300 lạng vàng, bạc. Ban
cho Hùng Bảo đất Toàn Liệt, ban cho Trần Nương đất Thái Lai làm thực ấp. Lúc sống
thì làm cung ấp, khi hóa thì là nơi phụng thờ mãi mãi.
Nhi vua Hai Bà Trưng ở ngôi được 3 năm thì nhà Đông Hán sai
Mã Viện đem 20 vạn quân sang xâm chiếm nước ta. Trưng Vương liền triệu vợ chồng
tướng Hùng Bảo hồi kinh mang quân ứng chiến. Ông bà dẫn quân thẳng đến đất Đô
Dương - Cửu Chân giao chiến với quân Hán. Ông chém liền hơn 10 tướng giặc, nhưng
quân giặc quá đông, bao vây chặt quân ta. Hai vợ chồng nhị tướng cố gắng phá
vòng vây, chém liền mấy tướng giặc nữa rồi chạy về đất Chu Diên. Quân giặc ồ ạt
đuổi theo, đến bến Tuyền Liệt, không còn quân, không còn đường rút, nhị tướng
lao xuống sông tuẫn tiết.
Thương tiếc và cảm phục vợ chồng người tướng tài giỏi, trung
liệt, Nhị thánh vương Hai Bà Trưng và các triều đại sau này đều phong mỹ tự cho
hai vợ chồng nhị tướng Hùng Bảo - Trần Nương. Sắc phong cho tướng Hùng Bảo là
"Uy linh hiển ứng thiên bảo hộ quốc đại vương". Sắc phong cho nữ tướng
Trần Nương là "Ả Nương Hoàng công chúa đại vương linh phù chi thần".
Tưởng nhớ đến công lao to lớn của vợ chồng người tướng tài
ba, trung liệt, nhân dân Phú Mỹ lập đình thờ hai vị, tôn danh tướng Hùng Bảo
làm Thành hoàng làng. Vào các dịp lễ tết, các ngày tuần tiết đều sắm sửa lễ
nghi, đèn nhang thờ phụng.
Kiến trúc
Mặc dù bia ký và niên đại ghi chép thời gian xây dựng ngôi
đình không còn, nhưng qua nghệ thuật kiến trúc, nghệ thuật chạm khắc, nghệ thuật
trang trí của ngôi đình, giới nghiên cứu đoán định rằng đình Phú Mỹ được xây dựng
vào thế kỷ 17.
Đình Phú Mỹ hiện toạ lạc trên gò đất cao ở trung tâm làng
Phú Mỹ, xã Tự Lập. Đình quay hướng đông nam theo dòng chảy của sông Cà Lồ.
Kiến trúc đình bao gồm: ao đình - cổng trụ, sân, toà Đại
đình. Hai bên toà Đại đình có 2 toà Tả vu, Hữu vu.
Toà Đại đình có bố cục chữ "Đinh" kết cấu các vì
theo kiểu thức chồng rường, giá chiêng. Các hệ thống vì được liên kết với nhau
bởi các xà thượng, xà trung, xà hạ. Các cột được tạo tác theo kiểu "thượng
thu, hạ thách" gồm 48 cột đều có hòn kê bằng đá.
Nghệ thuật chạm khắc
Về nghệ thuật trang trí, các nghệ nhân đã sử dụng triệt để
các cấu kiện kiến trúc để thể hiện các hình tượng trang trí. Đó là điêu khắc
trên các bức cốn, xà, đầu dư, kẻ, bẩy. Các tác phẩm điêu khắc là những đề tài
sinh hoạt của con người, các con vật, hoa, lá, vân mây.
Đề tài "Tứ linh" được tạo tác thành tượng tròn, bố
trí trên các xà nách của hai gian bên. Đầu bẩy đình chạm khắc đôi rồng cuốn
nhưng đuôi kiểu cá chép, xung quanh hình đao, mác. Đầu dư là một tác phẩm được
chạm lộng đầu rồng miệng ngậm ngọc. Bức chạm trên cốn bên trái gian giữa nổi
lên hình một đôi rồng vờn nhau. Trên con rồng có một người cởi trần đóng khố
đang trong tư thế chiến đấu với một con rồng khác.
Phía trên bức cốn, ở góc phải là tác phẩm chạm khắc đề tài
"Tam đa" tượng trưng là: con khỉ đang nhảy nhót, tay cầm quả đào; một
con dơi đang bay; một con hươu đủng đỉnh đi, đầu ngoái lại. Bức chạm bên phải
cũng thể hiện đôi rồng và người cởi trần đóng khố đang vươn mình nắm đuôi rồng,
chân phải co lên đá.
Bức cốn nách hai bên đối nhau qua gian giữa chạm cảnh một
người cởi trần đóng khố đang múa với con rồng bằng tay trái, tay phải chống
nách, hai chân ở tư thế "đứng tấn" (cảnh múa rồng).
Nhiều bức chạm hai gian chái còn có các đề tài thiên nhiên
như hoa, lá, hình chuột, thỏ… và những con vật gần gũi với đời sống thường nhật
của người nông dân.
Nguồn: Kinh tế & Đô thị