Đình Phương Châu được khởi dựng dưới thời Lê Trung hưng, nửa cuối thế kỷ 17. Theo bản thần tích lưu giữ tại đình thì đình làng thờ phụng Thành hoàng làng là hai vị thần núi trong Tản Viên Tam Thánh là Cao Sơn Đại vương và Quý Minh đại vương.
Đình làng Phương Châu có từ cuối Thế kỷ 17. Đây là nơi thờ
phụng hai anh em thần núi Cao Sơn và Quý Minh. Đình được xếp hạng Di tích quốc
gia năm 1999. Địa chỉ tại Thôn Phương Châu, xã Phú Phương, huyện Ba Vì, Thành
phố Hà Nội.
Lược sử
Đình Phương Châu được khởi dựng khá sớm dưới thời Lê Trung
hưng, vào khoảng nửa cuối thế kỷ 17. Theo sự tích ghi chép trong bản thần tích
lưu giữ tại đình thì dân làng thờ hai vị thần núi trong Tản Viên Tam Thánh là
Cao Sơn Đại vương và Quý Minh Đại vương là Thành hoàng. Ngày 12/02/1999, ngôi
đình đã được Bộ Văn hoá — Thông tin xếp hạng và công nhận Di tích kiến trúc—nghệ
thuật quốc gia theo quyết định số 05/1999-QĐ-BVHTT.
Kiến trúc
Đình Phương Châu xây trên khoảnh đất cao và rộng giữa làng,
xung quanh có tường bao. Mặt đình nhìn về phía dãy núi Tản Viên ở hướng tây,
lưng đình quay ra bãi sông Hồng, thuộc một thế đất đẹp gọi là “tiền sơn hậu thuỷ”.
Trong khuôn viên của di tích hiện nay còn giữ được gần đầy đủ các công trình kiến
trúc, trừ dãy nhà tả vu và cổng nghi môn đã bị mất.
Từ đường xóm đi vào qua cổng đình ta sẽ thấy một khu vườn rộng,
bên phải là sân gạch, nhà hữu vu và tòa đại bái. Đại đình có mặt bằng nền hình
chữ “Đinh” nhưng mặt bằng mái lại theo hình chữ “Công”. Duyên do xưa kia chỉ có
một toà đại bái xây theo hình chữ “Nhất”, đến cuối thế kỷ 19 dưới đời vua Tự Đức
thì dân làng mới làm thêm một toà hậu cung nối vào phía sau để thờ thành hoàng.
Toàn cảnh đình Phương Châu. Panorama (c) 2016 NCCong
Đại bái bao gồm 3 gian 2 chái rộng, đầu đao ở 4 góc mái
cong. Mái đình rất to, trùm bộ khung gỗ được chia thành 6 hàng chân cột tạo tác
theo kiểu thượng thu hạ thách.
Cấu trúc vì nóc theo kiểu giá chiêng rường cụt và chồng rường.
Kết cấu các bộ vì nách kiểu chồng rường. Vì hiên có cấu trúc kiểu kẻ truyền.
Trên đầu các cột có hệ thống xà giằng các bộ vì tạo thành hệ khung.
Cả xà cột cái và xà cột quân đều soi vỏ măng hai bên và bào
trơn đóng bén, bụng và lưng phẳng, không có trang trí. Xung quanh đại bái không
có tường bao nên một số cấu trúc gỗ đang bị xuống cấp nghiêm trọng.
Ống muống nối liền đại bái với hậu cung, gồm có một gian,
hai bộ vì với 4 hàng chân cột. Vì nóc phía trước được làm theo kiểu chồng rường
biến thể, vì nóc phía sau theo kiểu chồng rường. Vì nách phía trước được tạo
tác theo kiểu kẻ, còn vì nách phía trong theo kiểu chồng rường.
Trong đình có một hậu cung kép nhằm tạo sự thâm nghiêm nơi
cung cấm và tôn cao vai trò của thành hoàng. Tại đây, khám thờ với long ngai
bài vị đặt trên một gác lửng, nằm lọt hoàn toàn giữa tòa hậu cung. Gác lửng này
làm bằng ván dựng trên sàn cao 1,8m, hai bên và phía sau bưng kín. Phía trước
có hệ cửa bức bàn, chỉ được mở vào những dịp đại lễ.
Nghệ thuật trang trí
Điêu khắc trang trí ở đình Phương Châu mang các phong cách
nghệ thuật thời Lê Trung hưng và thời Nguyễn.Trên hai đầu bờ nóc tòa đại bái có
hai kìm nóc dạng lân đứng, đắp bằng đất nung và vôi vữa. Các trang trí khác chủ
yếu thể hiện trên gỗ với các đề tài linh vật và nhân vật, đáng chú ý có bức chạm
“người cưỡi hổ” dưới đầu dư ở hai cột gian bên.
Đặc biệt các hình tượng rồng xuất hiện với rất nhiều dáng vẻ,
toát nên sắc thái, tình cảm khác nhau: oai phong như rồng ngự trên các đầu dư;
rụt rè như rồng ở các bức chạm trên vì nách, dũng mãnh tung mình trong mây ở bức
chạm rồng chầu mặt trời, hoặc hiền từ trong hoạt cảnh “rước rồng”.
Di vật
Hiện tại ở đình Phương Châu còn lưu giữ được khá nhiều cổ vật
phong phú về thể loại và bằng chất liệu có thể phân theo 4 nhóm sau:
1.Nhóm chất liệu gỗ:
03 cỗ kiệu sơn son thếp vàng từ thời Lê Trung hưng gồm kiệu
ngự, kiệu văn và kiệu nước;
02 long ngai và bài vị mang phong cách nghệ thuật thế kỷ 17;
02 bộ bát bửu gồm 16 chiếc mang phong cách TK 19;
02 hạc gỗ cao 2,5m mang phong cách cuối thế kỷ 17;
02 con nghê mang phong cách cuối thế kỷ 17 đầu thế kỷ 18;
01 hương án cao 1.65m, rộng 0,75m, dài 1,75m chạm lộng công
phu hai tầng, chạm kênh bong cả bốn mặt với nhiều lớp hoa văn trang trí, chủ đạo
vẫn là đề tài truyền thống tứ linh mang phong cách nghệ thuật thế kỷ 18;
01 sập thờ gỗ được chạm lộng 1,8m, cao 0,64m, rộng 1,28m ở
giữa chạm hình lưỡng long chầu nhật, trên thân rồng điểm xuyết nhiều đao mác,
mang phong cách TK 18; 04 bức hoành phi mang phong cách nghệ thuật cuối thế kỷ
19.
Ở gian giữa đại bái còn có bộ cửa võng chạm nổi đề tài “lưỡng
long chầu nguyệt” mang phong cách thế kỷ 19.
Gian bên bên phải đại đình có bộ cửa võng tuy không còn hoàn
chỉnh nhưng có thể đoán là được tạo tác ở thế kỷ 18.
Tại hậu cung còn một khám lớn bằng gỗ, trong khám bài trí
trang trọng long ngai bài vị thờ thành hoàng làng cùng hòm gỗ sơn son thếp vàng
chứa thần phả sắc phong.
2.Nhóm chất liệu sứ, gốm, đá, ngà:
01 bát hương sứ cao 14cm, đường kính 28cm mang phong cách
nghệ thuật thế kỷ 19.
03 hồ rượu thắt cổ bồng và 01 bát hương gốm mang phong cách
nghệ thuật thế kỷ 19.
02 choé cổ cùng số đo cao 48cm, đường kính 13cm, vân xanh
lam vẽ tích cảnh sơn thuỷ (ông lão đi qua cầu, có hai tiểu đồng đi hai bên) được
tạo tác vào đời nhà Thanh, Trung Quốc.
3.Nhóm chất liệu đồng:
01 chiêng đồng với phong cách nghệ thuật cuối TK 19 đầu TK
20; 02 hạc đồng mang phong cách cuối thế kỷ 18;
01 lư hương đúc hình trúc mai hoá rồng; 02 đài đồng to; 03
đài đồng nhỏ; 02 cây đèn đồng mang phong cách thế kỷ 19.
4. Nhóm chất liệu giấy cổ: 18 đạo sắc phong của các triều đại
phong kiến từ thời Lê đến thời Nguyễn (1637—1924) cho các vị thành hoàng làng.