Đình Quán Đình, xã Văn Môn, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh thờ phụng Thần Cao Sơn Đại vương thời Hùng vương và Thánh Tam Giang Trương Hống, Trương Hát.
Đình Quan Đình nằm trong cụm di tích đình-chùa Quan Đình, hiện
nay thuộc địa phận thôn Quan Đình, xã Văn Môn, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh.
Ngôi đình nằm ở giữa làng, dựng theo hướng tây-nam, xung quanh là khu dân cư
đông đúc, cũng như bao ngôi đình khác, đình Quan Đình là một công trình kiến
trúc mang tính chất tín ngưỡng dân gian, được dựng lên thờ Đức Thánh Tam Giang
và thần Cao Sơn. Với những giá trị về lịch sử và kiến trúc nghệ thuật, đình được
Bộ Văn hoá Thông tin Việt Nam xếp hạng vào ngày 18/1/1988 số 28/VH-QĐ.
Kiến trúc
Đình Quan Đình khởi thuỷ chỉ gồm 1 toà Đại đình hình chữ Nhất
được dựng vào niên hiệu Cảnh Hưng thứ 34 (1773) tức năm Quý Tỵ. Đến thời nhà
Nguyễn, niên hiệu Minh Mạng thứ 18 (1837), đình được tu sửa (dấu vết hiện còn
được lưu ở cột cái gian giữa Đại đình) và tiếp tục xây thêm ống muống và Hậu
cung. Do vậy, hiện nay mặt bằng tổng thể đình được kết cấu hình chữ
"Công" (bao gồm: Đại đình, ống muống, Hậu cung).
Với diện tích 10,9 x 26,0 m, Đại đình được kết cấu với 5
gian 2 chái, 1 tầng 4 mái, 6 hàng chân cột. Như vậy, đình Quan Đình được dựng
vào năm 1773 cho đến nay đã qua nhiều lần tu sửa, nhưng vẫn còn giữ lại được
nguyên những hiện trạng của lần khởi dựng ban đầu, với những mảng chạm khắc
trang trí ở vì nách, bảy hiên, vì hồi.
Căn cứ vào dấn ấn kiến trúc điêu khắc cổ, đặc biệt là dòng lạc khoản trên thượng lương của tòa Đại bái vẫn còn nguyên dòng chữ Hán: “Cảnh Hưng tam thập tứ niên” (1773), cho phép khẳng định ngôi đình đã được xây dựng với quy mô lớn vào thời Lê Trung Hưng.
Theo các cụ cao niên trong làng, khi mới được xây dựng vào thời Lê Trung Hưng, đình Quan Đình chỉ có một tòa Đại đình to lớn đồ sộ, trang trí chạm khắc đẹp. Sang đến thời Nguyễn, dân làng Quan Đình mới xây dựng thêm tòa Tiền tế, nới thêm phần Ống muống, Hậu cung và xây thêm hai tòa Tả vu, Hữu vu tạo thành kết cấu kiến trúc kiểu “Tiền chữ Quốc, hậu chữ Công”.
Vào những năm 70 của thế kỷ XX, tòa Tiền tế và nhà Tả vu, Hữu vu đã bị dỡ bỏ hoàn toàn, dấu ấn để lại là hệ thống nền móng và chân tảng cột đá xanh rất lớn. Ngày nay, đình Quan Đình chỉ còn tòa Đại đình theo kiểu chữ Công (I) bao gồm: Đại bái, Ống muống và Hậu cung nhưng quy mô rất rộng lớn, đồ sộ với tổng diện tích là 418m2.
Nghệ thuật điêu khắc ở đình Quan Đình có thể coi là một công trình nghệ thuật kiến trúc đặc sắc. Trừ hệ thống xà dọc và câu đầu, tất cả 6 vì của 5 gian tòa Đại đình, cốn, đầu dư, con chồng, cửa võng đều được chạm lộng với những tác phẩm điêu khắc gỗ đặc sắc.
Các nghệ nhân dân gian đã tận dụng từng khoảng gỗ nhỏ để thể hiện sự tài hoa khéo léo của mình qua bốn con vật linh: long, ly, quy, phượng biến hóa với trăm vẻ khác nhau, rất phóng khoáng, mạnh mẽ và sinh động. Tất cả hòa hợp lại, bổ xung cho nhau, họa tiết này tôn thêm vẻ đẹp của họa tiết kia, tạo nên sự phong phú và đa dạng, phối hợp rất ăn ý với kết cấu kiến trúc chồng dấu, làm cho ngôi đình trở thành một công trình nghệ thuật kiến trúc hoàn chỉnh, cổ kính.
Ngoài 4 con vật tứ linh, ở đình Quan Đình còn có nhiều bức điêu khắc độc lập về hoa sen cách điệu, hổ nằm, nghê cười, cá chép ngậm hoa sen… Mỗi bức điêu khắc đều mang một chủ đề riêng biệt, đường nét chạm khắc khéo léo, mềm mại thể hiện nghệ thuật trang trí điêu luyện.
Cùng với những họa tiết điêu khắc trang trí truyền thống của dân tộc, ta còn bắt gặp ở ngôi đình một số hình ảnh mang dáng dấp của văn hóa Chàm như điêu khắc ma ca ra cách điệu trên con rồng đằng trước… Những bức trạm khắc này mang đến cho ngôi đình vẻ cổ kính, sinh động hấp dẫn, chứng tỏ nghệ nhân dân gian xưa đã có sự tiếp thu, chọn lọc văn hóa khá tinh tế.
Bên cạnh giá trị lớn về kiến trúc, điêu khắc, đình Quan Đình còn có giá trị về nhiều mặt đặc biệt là cổ vật. Tuy số lượng không nhiều, nhưng giá trị của cổ vật ở đây lại vô cùng phong phú. Đó chính là hệ thống thần phả, đồ thờ tự, những ngai thờ, câu đối, kiệu thờ, ngựa gỗ cùng nhiều đồ thờ tự cổ quý khác, trong đó đặc biệt là bức hoành phi “Quan Đình nghĩa dân”, tương truyền là do Vua ban cho dân làng Quan Đình vì có nghĩa với triều đình và 57 đạo sắc phong của các triều đại phong kiến Việt Nam tặng cho người được thờ tự tại đây. Hệ thống đạo sắc phong này đã cho biết “Thần” được thờ ở đình Quan Đình là: “Cao Sơn đại vương” (Thần núi), “Thánh Tam Giang” (Trương Hống và Trương Hát) và “Thổ Linh chi đầu” (Thổ Thần). Như vậy, đình Quan Đình chính là di tích còn giữ được nhiều sắc phong nhất của tỉnh Bắc Ninh hiện nay.
Thần Cao Sơn
Thần Cao Sơn hay Cao Sơn đại vương được thờ ở đình Quan Đình
là Thần Cao Sơn có dấu tích từ thời Hùng Vương thứ nhất. Đây cũng là vị thần được
thờ ở đình Kim Liên ở Hà Nội, một trong Thăng Long tứ trấn và đền Cao Sơn ở Hoa
Lư tứ trấn Ninh Bình.
Thần Cao Sơn là một trong 50 người con theo mẹ Âu Cơ lên núi
là Lạc tướng Vũ Lâm, cai quản vùng núi phía Tây Ninh Bình. Đền thờ chính của thần
ở huyện Phụng Hóa, nay là đền Láo ở xã Văn Phú, Nho Quan, Ninh Bình.
Thần có công phù trợ quân Lê Tương Dực diệt được Uy Mục, sau
được dân làng Kim Liên rước về thờ và được phong là Cao Sơn đại vương trấn phía
Nam kinh thành. Ở Ninh Bình, thần Cao Sơn được thờ ở nhiều di tích thuộc vùng
núi Nho Quan - Tam Điệp và là vị thần trấn trạch phía tây Hoa Lư tứ trấn.
Theo như thần phả các đền thờ Cao Sơn ở Ninh Bình như: đền
Núi Hầu (Yên Thắng -Yên Mô), đền Quảng Phúc (Yên Phong - Yên Mô), đền Quèn Thờ
(Đông Sơn - Tam Điệp), đền Láo (Văn Phú, Nho Quan), đền Sơn Thần (Gia Thủy -
Nho Quan), Đình Hương Thịnh (Phú Lộc, Nho Quan), đền Vô Hốt (Lạc Vân, Nho
Quan), miếu Cao Sơn, (Kỳ Phú, Nho Quan), đền Gối Đại (Ninh Hải Hoa Lư) và đền
Cao Sơn (khu núi chùa Bái Đính) thì Cao Sơn đại vương là Lạc tướng Vũ Lâm (tức
vùng núi phía tây Ninh Bình ngày nay nên còn được gọi là vị thần tây trấn Hoa
Lư tứ trấn), con thứ 17 vua Lạc Long Quân, khi vâng mệnh vua anh (Hùng Vương thứ
nhất) đi tuần từ vùng Nam Lĩnh đến vùng Thiên Dưỡng, đã tìm ra một loài cây
thân có bột dùng làm bánh thay bột gạo, lấy tên mình đặt tên cho cây là Quang
lang (dân địa phương vẫn gọi là cây quang lang hay cây búng báng).
Thần đã dạy bảo và giúp đỡ người dân làm ăn sinh sống đồng
thời bảo vệ khỏi các thế lực phá hoại vì vậy đã được nhân dân lập nhiều đền thờ.
Thánh Tam Giang
Theo truyền thuyết thánh Tam Giang: Ngày xưa ở làng Vân Mẫu,
thành phố Bắc Ninh có một người con gái tên là Phùng Từ Nhan. Năm 18 tuổi, Từ
Nhan chiêm bao thấy thần Long từ trên trời hạ xuống quấn mình trên sông Lục Đầu,
sau đó bà mang thai 14 tháng và sinh hạ được cái bọc 5 con: 4 trai 1 gái.
Do là con trời ban cho nên bà lấy họ Trương của Ngọc Hoàng đặt
cho các con là Trương Hống, Trương Hát, Trương Lừng, Trương Lẫy và Trương Đạm
Nương. Thời gian sau đó, Ngọc Hoàng sai Lã Tiên Ông xuống trần dạy văn võ cho 5
người con tại bãi Tràng Học gần nhà Cổ Trạch.
Năm an hem đều văn võ song toàn, lớn lên hưởng ứng lời kêu gọi
của Triệu Việt Vương, họ xung phòng làm tướng tiến đánh giặc Lương ở đầm Dạ Trạch
và giành thắng lợi lớn. Trương Hống được phong tướng trấn giữ làng Tiên Tảo
(Sóc Sơn, Hà Nội), Trương Hát được phong tướng trấn giữ làng Tam Lư (Từ Sơn, Bắc
Ninh).
Khi Triệu Quang Phục lên ngôi vua, Lý Phật Tử đã đem quân
đánh lại nhưng không thắng, bèn dùng kế cầu hôn gả con. Trương Hống và Trương
Hát đã can Triệu Việt Vương nhưng Vua không nghe nên bị mắc mưu rồi bị đánh bại.
Lý Phật Tử đoạt được ngôi vua, biết các ông là tướng tài giỏi
bèn cho người mời ra làm quan. Song các ông nhất lòng trung quân, mắng lại rằng:
“Tôi trung chẳng thờ hai vua, huống hồ hắn là kẻ vong ơn bội nghĩa?” Biết không
thể khuất phục được, Lý Phật tử lệnh truy bắt các ông khắp nơi. Các ông biết
không thoát được liền tự vẫn ở dòng sông Cầu để giữ trọn tấm lòng trung với
vua.
Ngọc Hoàng Thượng đế cảm thương đã sắc phong Trương Hống,
Trương Hát làm thần sông. Nhân dân 372 làng dọc theo sông Cầu và các nơi hai
ông từng đóng quân đánh giặc đều thương tiếc, lập đền thờ làm Thần. Các triều đại
nhà Ngô, Đinh, Lê, Lý sau đó được âm phù giữ yên bờ cõi nên đều phong anh em họ
Trương là Đức thánh Tam Giang - đại vương thượng đẳng thần. Thánh Tam Giang còn
gắn liền với huyền thoại ra đời tác phẩm Nam quốc sơn hà, bản tuyên ngôn độc lập
đầu tiên của người Việt.