Đình Quan Đình và sự tích 3 vị thành hoàng Đình Quan Đình và sự tích 3 vị thành hoàng Đình Quan Đình thờ 3 vị thành hoàng làng ở hai thời kỳ lịch sử là thời kỳ cuộc khởi nghĩa Nhị vua Hai Bà Trưng và cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông thời nhà Trần. Đình Quan Đình Đình Quan Đình tọa lạc tại thôn Hảo Quan, xã Đồng Lạc (Nam Sách). Quan Đình thời xưa là một vùng đất có tên trang Lan Đình, sau đó đến thời phong kiến đổi thành làng Bạch Lật, xã Quan Đình, tổng Lạc Nghiệp, phủ Nam Sách.Hai vị đại vương thời Hai Bà Trưng Sự tích truyền lại rằng, hai vị đại vương là anh em ruột, con ông Đào Trung và bà Tạ Thị Phương, quê tại Ái Châu, phủ Thiệu Thiên, huyện Thạch Hà. Hai ngài cùng sinh một bọc ngày 12 tháng 8 (âm lịch). Cha mẹ đặt tên cho con thứ nhất là Nguyễn Công Thành, người con thứ hai là Nguyễn Đắc Chí. Lớn lên, cả hai đều thông minh, tài trí hơn người. Một hôm, hai ngài đến quận Giao Chỉ (Hải Dương ngày nay) thấy một tòa tiểu miếu ở rìa đường đi, chữ đề là “Thượng đẳng tối linh từ”, hằng ngày có nhiều người đến lễ bái. Thấy vậy, các ngài cũng vào làm lễ khấn mong địa thần chỉ bảo cho nơi quý địa được đời đời vinh hiển. Lễ xong, các ngài liền ngủ ngay cạnh miếu, quả nhiên thấy một thần uy về báo mộng cho biết hãy chọn trang Lan Đình, khu Bạch Lật, huyện Thanh Lâm làm nơi quý địa. Các ngài bèn theo lời trong mộng liền tìm đến trang Lan Đình (nay thuộc thôn Hảo Quan, xã Đồng Lạc) làm nơi an cư lạc nghiệp. Sau này, các ngài đem di cốt tổ tiên cùng cha mẹ đến táng ở các huyệt khu đất ấy. Thời bấy giờ, nước ta bị nhà Đông Hán đô hộ, quan thái thú quận Giao Chỉ là Tô Định đề ra chính sách đồng hóa gắt gao và bóc lột người Việt hà khắc. Các lạc tướng liên kết với nhau để chống lại nhà Hán. Bà Trưng Trắc kết hôn với con trai lạc tướng ở Chu Diên là Thi Sách, hai nhà cùng có chí hướng chống Hán. Khoảng năm 39-40, nhằm trấn áp người Việt chống lại, Thái thú Tô Định giết Thi Sách. Bà Trưng Trắc và các lạc tướng càng căm thù, cùng Trưng Nhị khởi nghĩa, dấy binh đánh đuổi giặc Tô để báo thù cho chồng, rửa hận cho nước. Hai ngài đến xin làm tướng cùng Hai Bà Trưng đánh giặc. Sau khi dẹp yên giặc, bà Trưng Trắc lên ngôi vua xưng là Trưng Nữ vương. Ông Nguyễn Công Thành được phong là Phó tướng Binh Khôi tướng quân, Nguyễn Đắc Chí được phong là Tả bật Điêu Bát tướng quân Sau đó, hai ngài về khu Bạch Lật, trang Lan Đình để thăm viếng mộ phần rồi đặt tiệc đãi dân trang. Khi ấy, tự nhiên trời đất tối sầm, mưa gió ầm ầm, bất chợt các ngài hóa về trời chỉ còn khăn áo để lại (ngày 24 tháng 7). Nhân dân lấy làm lạ bèn tâu lên vua Trưng Nữ vương. Vua thấy các ngài có công lớn nên ban cho dân 800 quan tiền lập miếu ngay chỗ các ngài để áo khăn lại và phong làm Phúc thần, nhân dân bản trang hương hỏa thờ cúng. Cây duối cổ thụ khoảng 500 năm tuổi cạnh đình Thượng đẳng thần Nguyễn Công Vàng Theo tư liệu “Thần tích - Thần sắc” và sự tích lưu truyền tại địa phương, Thượng đẳng thần Nguyễn Công Vàng sinh ngày 12 tháng giêng vào triều Trần tại xã Hạ Đỗ, huyện Trà Hương, phủ Kinh Môn (nay thuộc thôn Hạ Đỗ, xã Hồng Phong, huyện An Dương, TP Hải Phòng) trong một gia đình danh gia vọng tộc. Ông là con trai cả trong gia đình có 4 anh chị em. Khi lớn lên, ông có tính bẩm thông minh nổi tiếng, trí dũng vượt trội, nhân dân ai nấy đều kính phục. Bấy giờ, giặc Nguyên Mông đến xâm chiếm nước ta, Trần Quốc Tuấn được nhà vua tin tưởng giao chiêu mộ quân sĩ, tìm người tài giỏi trong nước cùng ra trận đánh giặc cứu nước. Khi nghe tin triều đình mộ quân đến xã Hạ Đỗ, ông từ biệt mẹ cha, làng xóm xin đi theo Trần Quốc Tuấn xông pha trận mạc. Chiến đấu dũng cảm, tài trí thông minh, ông giúp quân vương nhà Trần đại thắng ở Bạch Đằng, bắt sống Ô Mã Nhi, được vua Trần Nhân Tông phong là Phó Đô Nguyên soái đại tướng quân. Đến đời vua Trần Anh Tông (hiệu Hưng Long), giặc Ai Lao đem quân xâm chiếm nước ta, ông được nhà vua cử đi dẹp giặc. Ông chiêu mộ quân sĩ và xây dựng căn cứ tại trang Lan Đình. Trận chiến quyết liệt, không may trên đường lui binh về đến xã Tháp Phan (nay thuộc xã Đồng Lạc), ông bị thương và tử trận ngày 10 tháng 4 năm Bính Ngọ (1306) nhưng lá cờ dấy binh của ngài bay đến trang Lan Đình. Sau đó, vua nhà Trần cho dân bản trang 400 quan để lập miếu thờ ngài và phong ngài là Anh vũ Dũng lược Thượng đẳng thần. Do có công lao với nước nên qua các triều đại, 3 vị thành hoàng làng được vua triều Nguyễn ban 18 đạo sắc phong vào các năm Tự Đức thứ 6 (1853), 11 (1858), 33 (1880); Đồng Khánh thứ 2 (1887); Duy Tân thứ 3 (1909); Khải Định thứ 9 (1924). Trải qua sự biến thiên của thời gian, nhiều sắc phong đã bị mục nát và thất lạc. Theo tương truyền, đình Quan Đình được khởi dựng từ khá sớm, tiền thân là ngôi miếu nhỏ làm bằng tranh tre để thờ các vị thành hoàng làng. Trải qua thời gian, đình bị hư hại. Đến thời hậu Lê (thế kỷ 17), nhân dân xây dựng, nâng cấp lại miếu thành ngôi đình và được trùng tu khang trang, to đẹp vào thời Nguyễn. Năm 1953, thực hiện tiêu thổ kháng chiến, đình bị hạ giải hoàn toàn. Sau khi đất nước thống nhất năm 1975, nhân dân đã dựng một gian đình nhỏ trên nền đình cũ để thờ cúng các vị thành hoàng. Năm 2000, đình được nâng cấp thành 3 gian để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt và tín ngưỡng nhân dân. Năm 2014, đình được xây mới hoàn toàn theo kiến trúc kiểu chữ Đinh (J) gồm 3 gian đại bái và 1 gian hậu cung. Sân đình lát ngạch bát đỏ, mái lợp ngói mũi, cửa hậu cung đình làm bằng gỗ kiểu bức bàn, các góc mái đình có đắp đầu đao hình rồng, trên bờ nóc đắp hình “lưỡng long chầu nguyệt” tạo nên dáng vẻ của một ngôi đình làng truyền thống. Đặc biệt, nơi đây vẫn giữ được cây duối cổ thụ quý khoảng 500 tuổi cạnh đình như “cây sử sống”, chứng kiến sự đổi thay của làng qua bao thăng trầm lịch sử. Hằng năm, lễ hội chính của đình diễn ra vào ngày 20 tháng giêng âm lịch. Đây được xem là tế vọng giỗ vị Thượng đẳng thần Nguyễn Công Vàng. Lễ hội được tổ chức quy mô lớn, bao gồm rước thánh (3 năm rước 1 lần), giao lưu tế thánh giữa ba làng Hảo Quan, Pháp Than (xã Đồng Lạc) và Hạ Đỗ (An Dương, TP Hải Phòng) cùng nhiều trò chơi dân gian... Thập Nhất Nguồn: Báo Hải Dương Ths Nguyễn Thy Ngà Đình Quan Đình thờ 3 vị thành hoàng làng ở hai thời kỳ lịch sử là thời kỳ cuộc khởi nghĩa Nhị vua Hai Bà Trưng và cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông thời nhà Trần. Đình Quan ĐìnhĐình Quan Đình tọa lạc tại thôn Hảo Quan, xã Đồng Lạc (Nam Sách). Quan Đình thời xưa là một vùng đất có tên trang Lan Đình, sau đó đến thời phong kiến đổi thành làng Bạch Lật, xã Quan Đình, tổng Lạc Nghiệp, phủ Nam Sách.Hai vị đại vương thời Hai Bà TrưngSự tích truyền lại rằng, hai vị đại vương là anh em ruột, con ông Đào Trung và bà Tạ Thị Phương, quê tại Ái Châu, phủ Thiệu Thiên, huyện Thạch Hà. Hai ngài cùng sinh một bọc ngày 12 tháng 8 (âm lịch). Cha mẹ đặt tên cho con thứ nhất là Nguyễn Công Thành, người con thứ hai là Nguyễn Đắc Chí. Lớn lên, cả hai đều thông minh, tài trí hơn người. Một hôm, hai ngài đến quận Giao Chỉ (Hải Dương ngày nay) thấy một tòa tiểu miếu ở rìa đường đi, chữ đề là “Thượng đẳng tối linh từ”, hằng ngày có nhiều người đến lễ bái. Thấy vậy, các ngài cũng vào làm lễ khấn mong địa thần chỉ bảo cho nơi quý địa được đời đời vinh hiển. Lễ xong, các ngài liền ngủ ngay cạnh miếu, quả nhiên thấy một thần uy về báo mộng cho biết hãy chọn trang Lan Đình, khu Bạch Lật, huyện Thanh Lâm làm nơi quý địa. Các ngài bèn theo lời trong mộng liền tìm đến trang Lan Đình (nay thuộc thôn Hảo Quan, xã Đồng Lạc) làm nơi an cư lạc nghiệp. Sau này, các ngài đem di cốt tổ tiên cùng cha mẹ đến táng ở các huyệt khu đất ấy.Thời bấy giờ, nước ta bị nhà Đông Hán đô hộ, quan thái thú quận Giao Chỉ là Tô Định đề ra chính sách đồng hóa gắt gao và bóc lột người Việt hà khắc. Các lạc tướng liên kết với nhau để chống lại nhà Hán. Bà Trưng Trắc kết hôn với con trai lạc tướng ở Chu Diên là Thi Sách, hai nhà cùng có chí hướng chống Hán. Khoảng năm 39-40, nhằm trấn áp người Việt chống lại, Thái thú Tô Định giết Thi Sách.Bà Trưng Trắc và các lạc tướng càng căm thù, cùng Trưng Nhị khởi nghĩa, dấy binh đánh đuổi giặc Tô để báo thù cho chồng, rửa hận cho nước. Hai ngài đến xin làm tướng cùng Hai Bà Trưng đánh giặc. Sau khi dẹp yên giặc, bà Trưng Trắc lên ngôi vua xưng là Trưng Nữ vương. Ông Nguyễn Công Thành được phong là Phó tướng Binh Khôi tướng quân, Nguyễn Đắc Chí được phong là Tả bật Điêu Bát tướng quânSau đó, hai ngài về khu Bạch Lật, trang Lan Đình để thăm viếng mộ phần rồi đặt tiệc đãi dân trang. Khi ấy, tự nhiên trời đất tối sầm, mưa gió ầm ầm, bất chợt các ngài hóa về trời chỉ còn khăn áo để lại (ngày 24 tháng 7). Nhân dân lấy làm lạ bèn tâu lên vua Trưng Nữ vương. Vua thấy các ngài có công lớn nên ban cho dân 800 quan tiền lập miếu ngay chỗ các ngài để áo khăn lại và phong làm Phúc thần, nhân dân bản trang hương hỏa thờ cúng. Cây duối cổ thụ khoảng 500 năm tuổi cạnh đìnhThượng đẳng thần Nguyễn Công VàngTheo tư liệu “Thần tích - Thần sắc” và sự tích lưu truyền tại địa phương, Thượng đẳng thần Nguyễn Công Vàng sinh ngày 12 tháng giêng vào triều Trần tại xã Hạ Đỗ, huyện Trà Hương, phủ Kinh Môn (nay thuộc thôn Hạ Đỗ, xã Hồng Phong, huyện An Dương, TP Hải Phòng) trong một gia đình danh gia vọng tộc. Ông là con trai cả trong gia đình có 4 anh chị em. Khi lớn lên, ông có tính bẩm thông minh nổi tiếng, trí dũng vượt trội, nhân dân ai nấy đều kính phục.Bấy giờ, giặc Nguyên Mông đến xâm chiếm nước ta, Trần Quốc Tuấn được nhà vua tin tưởng giao chiêu mộ quân sĩ, tìm người tài giỏi trong nước cùng ra trận đánh giặc cứu nước. Khi nghe tin triều đình mộ quân đến xã Hạ Đỗ, ông từ biệt mẹ cha, làng xóm xin đi theo Trần Quốc Tuấn xông pha trận mạc.Chiến đấu dũng cảm, tài trí thông minh, ông giúp quân vương nhà Trần đại thắng ở Bạch Đằng, bắt sống Ô Mã Nhi, được vua Trần Nhân Tông phong là Phó Đô Nguyên soái đại tướng quân.Đến đời vua Trần Anh Tông (hiệu Hưng Long), giặc Ai Lao đem quân xâm chiếm nước ta, ông được nhà vua cử đi dẹp giặc. Ông chiêu mộ quân sĩ và xây dựng căn cứ tại trang Lan Đình. Trận chiến quyết liệt, không may trên đường lui binh về đến xã Tháp Phan (nay thuộc xã Đồng Lạc), ông bị thương và tử trận ngày 10 tháng 4 năm Bính Ngọ (1306) nhưng lá cờ dấy binh của ngài bay đến trang Lan Đình. Sau đó, vua nhà Trần cho dân bản trang 400 quan để lập miếu thờ ngài và phong ngài là Anh vũ Dũng lược Thượng đẳng thần.Do có công lao với nước nên qua các triều đại, 3 vị thành hoàng làng được vua triều Nguyễn ban 18 đạo sắc phong vào các năm Tự Đức thứ 6 (1853), 11 (1858), 33 (1880); Đồng Khánh thứ 2 (1887); Duy Tân thứ 3 (1909); Khải Định thứ 9 (1924). Trải qua sự biến thiên của thời gian, nhiều sắc phong đã bị mục nát và thất lạc.Theo tương truyền, đình Quan Đình được khởi dựng từ khá sớm, tiền thân là ngôi miếu nhỏ làm bằng tranh tre để thờ các vị thành hoàng làng. Trải qua thời gian, đình bị hư hại. Đến thời hậu Lê (thế kỷ 17), nhân dân xây dựng, nâng cấp lại miếu thành ngôi đình và được trùng tu khang trang, to đẹp vào thời Nguyễn. Năm 1953, thực hiện tiêu thổ kháng chiến, đình bị hạ giải hoàn toàn. Sau khi đất nước thống nhất năm 1975, nhân dân đã dựng một gian đình nhỏ trên nền đình cũ để thờ cúng các vị thành hoàng. Năm 2000, đình được nâng cấp thành 3 gian để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt và tín ngưỡng nhân dân. Năm 2014, đình được xây mới hoàn toàn theo kiến trúc kiểu chữ Đinh (J) gồm 3 gian đại bái và 1 gian hậu cung. Sân đình lát ngạch bát đỏ, mái lợp ngói mũi, cửa hậu cung đình làm bằng gỗ kiểu bức bàn, các góc mái đình có đắp đầu đao hình rồng, trên bờ nóc đắp hình “lưỡng long chầu nguyệt” tạo nên dáng vẻ của một ngôi đình làng truyền thống. Đặc biệt, nơi đây vẫn giữ được cây duối cổ thụ quý khoảng 500 tuổi cạnh đình như “cây sử sống”, chứng kiến sự đổi thay của làng qua bao thăng trầm lịch sử.Hằng năm, lễ hội chính của đình diễn ra vào ngày 20 tháng giêng âm lịch. Đây được xem là tế vọng giỗ vị Thượng đẳng thần Nguyễn Công Vàng. Lễ hội được tổ chức quy mô lớn, bao gồm rước thánh (3 năm rước 1 lần), giao lưu tế thánh giữa ba làng Hảo Quan, Pháp Than (xã Đồng Lạc) và Hạ Đỗ (An Dương, TP Hải Phòng) cùng nhiều trò chơi dân gian...Thập NhấtNguồn: Báo Hải DươngThs Nguyễn Thy Ngà Trở về đầu trang Đình Quan Đình tam vị thành hoàng nhị vua Hai Bà Trưng thời Trần giặc Nguyên Hải Dương 0 Tổng số: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10