Đình Tây Đằng là nơi thờ phụng ba Đức thành hoàng: Thánh Gióng, Thần Nông và Tản Viên Sơn Thánh, có công đánh bại cuộc xâm lăng của nhà Thục, được người dân Việt suy tôn một trong “Tứ thánh bất tử”.
Đình Tây Đằng có từ thế kỷ 16, phụng thờ Tản Viên Sơn
Thánh, phối thờ Thánh Gióng và Thần Nông tại thị trấn Tây Đằng, huyện Ba Vì,
Thành phố Hà Nội. Đình được xếp hạng Di tích quốc gia đặc biệt vào năm 2013.
Lược sử
Đình Tây Đằng toạ lạc tại Thị trấn Tây Đằng, huyện Ba Vì,
TP Hà Nội, ven đường quốc lộ QL32. Trong đình có thờ ba Đức thành
hoàng: Thánh Gióng, Thần Nông và Tản Viên Sơn thánh, một trong những vị thần "Tứ bất tử" ở Việt Nam.
Ngôi đình này được xây dựng vào đầu thế kỷ 16 dưới thời nhà
Mạc năm Đại Chính nhị niên (1531), sau này đã qua nhiều lần trùng tu.
Hiện nay du khách vẫn có thể tận tay chạm vào và tận mắt nhìn sát
một số cột gỗ bị hỏng và điêu khắc cũ.
Để tôn vinh và bảo vệ những giá trị tuyệt vời của
di tích này về các mặt lịch sử, văn hoá và nghệ thuật dân tộc, Thủ
tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 2383/QĐ-TTg ngày 09-12-2013, xếp hạng đình
Tây Đằng là Di tích Quốc gia Đặc biệt.
Đình Tây Đằng – Một di sản kiến trúc văn hóa còn mãi với thời
gian
Là một trong những ngôi đình cổ nhất Việt Nam, Đình Tây Đằng
đã ngót 500 năm tuổi, được xây dựng vào thời nhà Mạc năm Đại Chính nhị niên
(1531). Ngôi đình thờ Đức Thánh Tản Viên Đệ Nhất Phúc Thần, cùng đức Phù Đổng
Thiên Vương và Thần Nông
Toàn bộ khu đình nằm trên một khuôn viên rộng lớn, thoáng đẹp,
hướng Nam mé Tây trông về đền Đức Thánh Tản trên núi Ba Vì. Đi qua cổng chính
ta bắt gặp một hồ nước lớn, nơi giao hòa giữa trời cha đất mẹ dâng đầy linh
khí.
Tiếp đến là nghi môn, gồm bốn cột đồng trụ, hai cột thấp bên
trên có hai nghê chầu, hai cột cao, bên trên mỗi đầu cột có bốn chim phượng uốn
lượn vút lên như một bông hoa dành dành, thể hiện thế nghiêm thiêng của ngôi
đình. Hai phía bên phải và bên trái là tả vu và hữu vũ.
Hạng mục công trình này nhằm làm những công việc chuẩn bị
cho việc khánh tiết. Nhà tả vu và hữu vu đã bị đổ nát từ lâu, mãi đến khi tiến
hành trùng tu ngôi đình thì mới được dựng lại.
Đầu hồi phía phải của ngôi đình là một giếng cổ, nguồn nước
đá ong bốn mùa trong xanh. Giếng này trước đây nằm ngoài hàng rào của khuôn
viên đình, nay mới được đưa vào trong, làm cho ngôi đình càng thêm linh diệu
hơn. Sau nghi môn là một sân rộng, nơi tổ chức lễ hội vào dịp xuân về hoặc những
ngày cúng tế.
Giếng nước cổ ở đầu hồi bên phải Đình Tây Đằng
Hai bên sân có tả mạc, hữu mạc dẫn vào đại đình. Trước đây,
thềm đại đình chỉ cao khoảng 40 cm đủ một bước chân, sau khi trùng tu, thềm đã
được nâng thành bậc tam cấp cao 75cm. Sàn đình rộng 360m2, được bố cục kiểu 3
gian với sáu hàng cột: Hai cột cái, hai cột quân và hai cột con, đó cũng là nét
đặc trưng của những ngôi đình cổ.
Tất cả các cột đều theo lối “thượng thu hạ thách” kiểu dáng
bông đòng đòng, “ngồi” trên chân tảng đá ong. Tất cả các cột quân và cột con đều
có xu hướng choãi ra, tạo thế mở rộng vùng chân đế và hạ thấp trọng tâm của
ngôi đình nhằm tăng độ ổn định, bền vững cho công trình. Đỡ thượng lương là giá
chiêng chồng rường kiểu “chồng nhị”.
Gian chính giữa đình là bàn thờ Đức Thánh có cửa võng, y
môn, lọng che, hai giàn bát bửu và đôi hạc chầu. Gian thờ quanh năm đóng cửa,
trừ những ngày lễ hội, nhưng do đông khách thăm viếng nên gian thờ lúc nào cũng
nghi ngút khói hương, không khí thật trang nghiêm! Các gian hai bên còn lại được
bố trí sạp ngồi của các quan viên trong những ngày lễ hội hay khi việc làng. Kết
cấu được giữ nguyên theo kiểu nhà sàn của người Việt cổ vùng sơn cước.
Khác biệt của đình Tây Đằng so với các ngôi đình còn lại là
không có ván thưng xung quanh, nhờ đó công trình trở nên thông thoáng hơn và bền
vững với thời gian.
Do đình thấp nên người Việt cổ đã chọn kết cấu rất sáng tạo,
mặc dù không có quá giang: Liên kết cột cái với cột cái là câu đầu, cột cái với
cột quân là xà nách. Trên xà nách là chồng rường tạo độ dốc cho mái.
Kẻ liền bẩy kéo dài từ cột quân vươn dài đến tàu mái. Hệ thống
xà thượng, giằng đầu các cột cái, cột quân và cột con lại với nhau theo chiều
dài của ngôi đình. Cột con đỡ thẳng vào bẩy không qua ngàm, như vậy tạo cho bẩy
không bị tiết diện giảm yếu khi liên kết với cột con làm cho công trình vững chắc
hơn.
Bí quyết để cấu trúc công trình được ổn định và bền vững là ở
chỗ dùng mộng thắt đuôi én, ngoàm và nêm chắc đầu cột cũng như các cột quân, cột
con choãi chân thang ra ngoài. Do đặc tính của công trình như vậy nên ngay cả
sau khi đã tháo toàn bộ sạp và các xà chân cột, công trình hoàn toàn không suy
xuyển gì, vẫn vững vàng cùng năm tháng.
Đình Tây Đằng có tới 1.300 họa tiết được chạm khắc hết sức
tinh xảo, đậm nét tài hoa của những con người làm ra nó. Nét đặc biệt có một
không hai của ngôi đình này là không một chi tiết nào giống nhau, từ họa tiết kẻ
liền bẩy bốn góc, kẻ liền bẩy vì chính, đến các đầu dư đầu duôi, xà thượng, các
chồng rường, bát đỡ, câu đầu, chếnh xối, ván nong… đều là những tác phẩm nghệ
thuật kiệt tác.
Mỗi hoa văn một kiểu, các họa tiết hoa văn mang tính đặc sắc
của các vùng miền văn hóa khác nhau như: Họa tiết người nông dân trồng cấy lúa
của vùng đồng bằng Bắc Bộ, quăng chài bắt cá của vùng sông nước miền duyên hải,
đua thuyền của Nam Bộ, chơi đàn tính của đồng bào Tày Nùng, voi chầu của vùng
Tây Nguyên, ngựa hý của vùng cao, đấu vật kéo co trong ngày lễ hội mang màu sắc
dân gian, cá vượt vũ môn hóa rồng, bộ tứ linh, trời mây hoa lá rất phong phú,
có tới vài chục nữ thần cưỡi mây bay lượn trên bầu trời.
Các nữ thần được bố trí trên các đầu duôi khắp bốn phía sát
mái đình, hình tượng các nữ thần đầu quấn khăn như những Apxara, cũng với hình
tượng Bà Banh mang ý nghĩa phồn thực đậm phong cách của các nghệ nhân Chămpa.
Nghệ thuật Chămpa không chỉ thấy riêng ở đình Tây Đằng mà
còn gặp ở đình Yên Bồ cũng gần đấy. Bà Banh đình Tây Đằng đặt ở con chồng nằm
trên vị trí xà nách. Bà Banh ở đình Yên Bồ đặt trên giữa thượng cung, phía trước
bài vị Thành Hoàng làng, gây một cảm giác tín lễ của phong tục Chăm, cùng với
chiếc gậy hỉ.
Khi người nào hiếm con trai đều đến xin cầu tự ở đây. Ông Từ
làm lễ cúng Thành Hoàng xong, người chồng cầm gậy hỉ chọc vào khe linh của Bà
Banh ba lần. Sau chín tháng mười ngày là đạt được linh ứng. Thể thức tín ngưỡng
này giống như Linga và Yoni nguyên bản vùng tháp Chàm và Tây Nguyên.
Năm 2005, Bộ Văn hóa đã chủ trì việc trùng tu ngôi đình. Cột
gỗ mít và thông đỏ được thay thế bằng gỗ lim, các chân tảng bằng đá ong được
thay bằng đá xanh. Chỉ còn một vài cột cái, cột quân và một phần cột con là cố
giữ lại.
Các họa tiết đặc biệt quý hiếm của đình Tây Đằng vẫn được bảo
tồn nguyên giá trị vốn có. Việc trùng tu đã đảm bảo kĩ thuật tốt, đảm bảo độ vững
chãi của ngôi đình. Tiếc rằng, toàn bộ các cột được thay thế chỉ giữ lại được
phần thượng thu hạ thách, còn dáng kiểu bông đòng đòng thì đã không còn, nên phần
nào xa cách với di sản xưa.
Bốn trụ đăng nghi môn cũng chỉ giữ lại được phần trụ lớn về
phía bên phải của ngôi đình. Đỉnh trụ bốn góc chạm bốn con phượng uốn lượn
thành bông hoa dành dành. Dáng trụ thanh thoát và nghệ thuật rất tinh xảo tiếc
rằng, trụ lớn phía đối diện và hai trụ con hai bên đắp còn thô lược. Hậu thế
không thể bắt trước được Tiền nhân.
Đình Tây Đằng là một tác phẩm nghệ thuật kiến trúc văn hóa đặc
biệt độc đáo, đầy ắp các di vật quý giá cả về văn hóa vật thể lẫn phi vật thể của
ông cha. Với những giá trị văn hóa, kiến trúc, chạm khắc, tài hoa, sống động,
đình Tây Đằng như một bảo tàng nghệ thuật của thế kỷ 16 và là di sản văn hóa kiến
trúc độc nhất vô nhị của tổ tiên ban tặng cho các thế hệ con cháu muôn đời sau.
Hãy biết bảo tồn, tôn tạo và gìn giữ di sản đặc biệt quý giá này.
KTS Nguyễn Địch Long