Đình Thổ Khối thờ 6 vị thành hoàng làng gồm: Cao Sơn đại vương, Linh Lang đại vương, Bố Cái đại vương, Bạch Đa đại vương, Dị Mệ đại vương và Đào thành hoàng.
Thổ Khối là một trong 4 thôn của xã Cự Khối trước đây. Phía
Bắc giáp phường Long Biên, phía Đông và Đông Bắc giáp Thạch Bàn và Trâu Quỳ,
phía Nam giáp xã Đông Dư, phía Tây là sông Hồng, bờ bên kia là huyện Thanh Trì.
Thời Nguyễn, Thổ Khối thuộc tổng Cự Linh, huyện Gia Lâm, phủ
Thuận An, trấn Kinh Bắc (từ năm 1831 trở đi là tỉnh Bắc Ninh). Sách Khâm định Việt
sử thông giám cương mục ghi về thời Trần: "Tháng Bảy mùa thu (năm 1352)
có thủy tai lớn. Nước lên to, vỡ đê Bát [Tràng, Cự] Khối, lúa má bị ngập; Khoái
Châu, Hồng Châu và phủ Thuận An bị thiệt hại hơn cả".
Nếu đúng vậy thì Cự Khối là địa danh rất cổ của
một vùng trồng lúa có từ trước đây ít nhất 7 thế kỷ. Hiện nay đoạn
đường 5km dưới chân đê sông Hồng từ Tư Đình đến cầu Thanh Trì được
mang tên Bát Khối.
Năm 1956, tổng Cự Linh được chia thành hai xã Cự Khối, Thạch
Bàn. Xã Cự Khối gồm hai thôn Thổ Khối, Xuân Đỗ. Ngày 20-4-1961, xã Cự Khối cùng
các xã khác trong huyện Gia Lâm được chuyển từ tỉnh Bắc Ninh về TP Hà Nội.
Ngày 6-11-2003, xã Cự Khối trở thành phường Cự Khối, thuộc
quận Long Biên mới thành lập. Phường này gồm 13 tổ dân phố, trong đó 7 tổ nằm
trên đất làng Thổ Khối xưa. Trên phương diện hành chính, tên Thổ Khối không được
sử dụng.
Đình Thổ Khối có từ lâu đời, muộn nhất cũng trước năm 1730 nếu
căn cứ vào di vật cổ nhất còn lại trong cung cấm là bản sắc phong ghi niên hiệu
Vĩnh Khánh thứ 2 thời Lê Trung hưng. Đình thờ 6 vị thành hoàng làng gồm: Bố
Cái đại vương, Cao Sơn đại vương, Linh Lang đại vương, Bạch Đa đại vương, Dị Mệ
đại vương và Đào thành hoàng.
Đình Thổ Khối nằm tại ven đê thuộc hữu ngạn sông Hồng. Dưới
góc nhìn phong thủy, có người cho rằng đây là thế đất “Rồng chầu”. Bởi dải đê
sông Hồng là thân Rồng, giếng đình và đầm đền Cây là mắt Rồng, đình, chùa đối xứng
nhau là gò má Rồng, đê quai sau đình là hàm Rồng. Đây là một cách nhìn mang
tính khái quát văn hóa cổ truyền.
Thổ Khối, theo cách giải nghĩa của từ Hán – Việt là mảnh đất,
khối đất được liên kết chặt chẽ và bền vững. Chính mảnh đất này trải qua năm
tháng của lịch sử đã trở thành một làng quê thân thương.
Dưới thời Nguyễn, Thổ Khối là một xã thuộc tổng Cự Linh, huyện
Gia Lâm, phủ Thuận An, xứ Kinh Bắc. Thổ Khối và Xuân Đỗ nhập làm một xã mới là
Cự Khối thuộc huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh. Từ năm 1961, huyện Gia Lâm được nhập
về ngoại thành Hà Nội. Hiện nay, đình Thổ Khối thuộc tổ 9, phường Cự Khối, quận
Long Biên.
Theo lời kể của dân Thổ Khối thì vào thời Lê (thế kỷ
XV-XVIII) có ông Đào Duy Chinh (Trình) vốn người huyện Tống Sơn, phủ Thanh Hoa
(Thanh Hóa) đến vùng bãi bồi này lập thành ấp Vạn Thổ. Về sau dân cư ngày càng
đông đúc lập thành làng Thổ Khối. Khi người họ Đào qua đời, dân làng Thổ Khối
ghi nhớ công ơn khai sinh lập ấp, thờ làm Thành hoàng trong đình.
Một tích khác kể rằng, ông là người Thổ Khối, huyện Tống
Sơn, phủ Thanh Hoa (Thanh Hóa) đến vùng bãi bồi này làm ăn sinh sống. Ông có
công giúp vua Lê thoát nạn, sau đó được triều đình cho phép kiểm soát thuyền bè
qua lại nơi đây. Nếu có bị vỡ đê, lũ lụt thì được phép viện binh cứu hộ từ Tuần
Phủ Thái Bình đến Tuyên Quang. Sau khi ông mất, dân làng thờ ông làm Thành
hoàng và được triều đình phong sắc.
Lại còn sự tích nữa kể rằng, sinh thời ông là người có đức hạnh,
làm nghề ngư nghiệp bằng thuyền. Một đêm, Thần báo mộng cho ông hay, sáng sớm
hôm sau nên chở thuyền ra sông đón vua. Ông tuân theo và quả nhiên khi bơi thuyền
tới giữa dòng sông thì gặp vua chạy loạn tới. Ông rước vua qua sông bình yên.
Sau này khi ông mất, được phong làm Thành hoàng làng. Vua còn miễn cho người
dân Thổ Khối có việc sang qua sông Hồng từ Bát Tràng đến bến đò Dâu không phải
trả tiền đò.
Hiện nay, tại đình Thổ Khối còn giữ được 6 cỗ ngai và bài vị
có liên đại vào thế kỷ XVIII, tấm bia có niên hiệu Cảnh Hưng thứ 46 (1785), sắc
phong cổ nhất có niên hiệu Vĩnh Khánh thứ 2 (1730) và đặc biệt trên kiến trúc ở
dĩ (chái) của tòa Trung đường còn một vài con chồng (rường) được chạm khắc có
nét tương đồng nghệ thuật trên kiến trúc đền Gióng (Phù Đổng), đình Trân Tảo
(Phú Thị) mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XVIII. Như vậy, đình làng Thổ Khối
cũng có thể được xây dựng ít nhất từ thế kỷ XVIII.
Tấm bia có niên đại Cảnh Hưng thứ 46 (1785) hiện được đặt tại
bên trái tòa Trung đường cho biết ngôi đình đã được tu sửa vào năm này. Vậy thì
vào thế kỷ XVIII, làng Thổ Khối đã là một làng quê ổn định, trong bối cảnh xã hội
đương thời.
Kể từ đầu thế kỷ XVIII, đình Thổ Khối đã thờ 6 vị Thần, nhưng
khởi nguyên làng chỉ thờ Thành Hoàng họ Đào, còn các vị Thần khác chỉ được phối
thờ. Từ đó, chúng ta có thể tin được Thành hoàng họ Đào phải có trước thế kỷ
XVIII cũng đồng nghĩa với khung niên đại lịch sử hình thành làng Thổ Khối. Đình
làng Thổ Khối thờ 5 vị Phúc thần ngoài thành hoàng họ Đào.
Trước cửa đình là giếng nước, bờ giếng được viền tường gạch
và có bậc lên xuống. Xưa kia, các cụ không cho làm bẩn đến nước giếng, ngay cả
việc rửa chân tay, do vậy, dân làng thường lấy nước giếng về sinh hoạt. Giếng
đình có giá trị tinh thần rất lớn, không thể tách rời ngôi đình, đó là điểm tụ
Thủy và chính là tụ Phúc. Đình Thổ Khối quay về hướng Tây nhằm cầu cho Thần
luôn yên vị.
Trước đây, đình còn có Nghi môn với 4 trụ biểu được đắp nhiều
con Giống linh thiêng và câu đối chữ Hán. Phía bên phải đình là Văn chỉ, nay đã
bị phá. Hiện nay là Đài tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ của xã và miếu thờ Nhị
vị Thánh Bà.
Sân đình rộng lớn được lát gạch Bát Tràng, dẫn vào tòa Đại
đình. Mặt bằng kiến trúc ngôi đình có kết cấu hình tiền nhất, trung đinh, hậu
công. Đây là mặt bằng kiến trúc hiếm gặp ở những ngôi đình khác. Tòa Tiền tế và
tòa Đại đình được dựng tiếp giáp nhau, có chung máng nước, tiếp đến là tòa Ống
muống, qua Ống muống là Hậu cung gồm Cung ngoài và Cung cấm, được cách bởi tòa
Thiêu hương.
Tòa Tiền tế được xây 7 gian theo kiểu tường hồi bít đốc.
Riêng 3 gian giữa đột khởi theo kiểu mái chồng diêm tạo thành các đầu đao cong.
Xung quanh phần cổ diêm là hàng con tiện. Bộ vì được làm khá đơn giản với quá giang
đặt trên 2 hàng cột gạch chỉ. Đặt trên các quá giang là hệ thống vì nóc theo kiểu
chồng rường. Nghệ thuật tạo tác rất đơn giản, chủ yếu là bào trơn, kẻ soi.
Tòa Đại đình gồm 5 gian 2 chái, nằm song song với tòa Tiền tế.
Chính bởi gian chái có hệ thống kẻ góc đã tạo nên cho các góc mái đình cong và
tạo thành hệ thống đầu đao, đầu guột khiến cho mái đình một dáng vẻ mềm mại, uyển
chuyển. Nền Đại đình được lát gạch Bát Tràng với 4 hàng chân cột. Bộ vì được kết
cấu theo kiểu giá chiêng chồng rường con nhị thay cột chốn bằng rường cụt, cốn
kẻ ngồi, bẩy hiên, đầu dư chạm hình đầu Rồng. Trên các cấu kiện chủ yếu là chạm
hoa lá và Rồng cách điệu tạo cho kết cấu bớt đi vẻ thô kệch.
Tòa Ống muống là ngôi nhà nhỏ nối liền giữa Đại đình với hậu
cung. Đó là ngôi nhà làm theo kiểu chồng diêm, kết cấu khá đơn giản, đề tài chạm
trổ chủ yếu là Rồng, mây, hoa, lá. Kiến trúc này đã giúp nội thất ngôi đình được
thông thoáng và đảm bảo có ánh sáng tự nhiên.
So với các ngôi đình khác ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ, Hậu
cung đình Thổ Khối có kết cấu hình chữ Công, bao gồm Cung ngoài, Thiêu hương và
Cung cấm.
Cung ngoài là ngôi nhà 3 gian nằm song song với tòa Đại
đình. Cung này được xây dựng theo kiểu tường hồi bít đốc, có hệ thống cửa bức
bàn. Các bộ vì làm theo kiểu giá chiêng, chồng rường, trụ trốn. Đỡ các vì là hệ
thống 4 hàng chân cột. Các đầu dư ở đây cũng được thể hiện kiểu đầu Rồng, hình
mập, mắt lồi, miệng há rộng ngậm ngọc “Minh châu”, râu dài xoắn hình chữ S, bờm
tạo thành các đao mác. Nghệ nhân xưa đã sử dụng lối chạm bong kênh kết hợp chạm
lộng, khiến cho đầu Rồng uyển chuyển và sống động.
Thiêu hương là ngôi nhà nhỏ nối liền gian giữa của Cung
ngoài với Cung cấm. Thiêu hương làm khá đơn giản, nghệ thuật chạm khắc chủ yếu
là bào trơn, kẻ soi và trang trí các hoa văn.
Cung cấm là một ngôi nhà 3 gian được làm khá đơn giản theo
kiểu đầu hồi bít đốc. Các bộ vì của Cung cấm có kết cấu theo kiểu vì quá giang
gối đầu lên tường. Nghệ thuật chạm khắc các bộ vì đơn giản, chỉ là bào trơn và
kẻ soi.
Hồ đình Thổ Khối. Photo NCCong ©2014.
Đại đình Thổ Khối. Photo NCCong ©2014.
Bài vị các thành hoàng đình Thổ Khối. Photo NCCong ©2019.
Đền Xuân Dung phu nhân. Photo NCCong ©2014.
Thông qua hệ thống bia ký và chữ ghi trên nóc của Đại đình
thì đình Thổ Khối chỉ còn thấy niên đại của quá trình tu bổ vào những năm Cảnh
Hưng thứ 46 (1785), Minh Mệnh thứ 3 (1822), Minh Mệnh thứ 18 (1837) và năm Quý
Mùi (1883), năm 1861 tu sửa Hậu cung.
Đình làng Thổ Khối hiện nay còn lưu giữ 73 đạo sắc phong của
các triều đại vua trước đây, trong đó, có 3 đạo sắc phong được sao lại và 6 đạo
sắc phong cho Nhị vị Thánh Bà (Xuân Dung phu nhân và Tùng Hoa phu nhân).
Đạo sắc có niên đại sớm nhất vào năm Vĩnh Khánh thứ 2 (1730)
và có đạo sắc có niên đại muộn nhất là Bảo Đại thứ 15 (1940). Trong bộ sưu tập
sắc phong đó có những đạo sắc thời Tây Sơn, với niên hiệu Quang Trung năm thứ 4
(1791) và niên hiệu Cảnh Thịnh năm thứ nhất (1793).
Đình Thổ Khối còn thờ Nhị vị Thánh Bà, trước đây, được thờ ở
khu ao 5 góc, do sụp đổ, nhân dân đã mang bài vị về thờ cạnh đình. Ngoài ra,
xưa kia ở bên trái đình còn có Từ chỉ.
Trải qua năm tháng và nhiều lần tu sửa, đình Thổ Khối hiện
chỉ còn lưu giữ được 5 tấm bia đá tạm đủ để chúng ta có thể tìm hiểu được lịch
sử hình thành, tồn tại và quá trình thay đổi ngôi đình. Đặc biệt hơn khi nghiên
cứu phần Minh văn chữ Hán còn cho biết được tình hình làng xã đương thời như việc
đóng góp sức người, sức của để trùng tu di tích, việc phân chia, mua bán đất,
việc phân định các giáp trong làng để tiện cho việc thờ cúng các vị Thần…
Đình Thổ Khối đã được Bộ Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng di tích lịch sử văn hóa. Cùng với chùa, đình
Thổ Khối tạo thành cụm di tích để mọi người có thể tham quan, tìm hiểu và góp
phần không nhỏ vào việc nghiên cứu lịch sử làng xã Việt Nam.