Đình chùa thôn Hội là tên gọi theo địa danh của thôn, chùa có tên chữ là “Sùng Kính tự” (chùa Sùng Kính), nay thuộc xã Cổ Bi, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội. Đình thôn Hội thờ phụng danh tướng Ả Lã Nàng Đê thời nhị vua Hai Bà Trưng và Cao Biền.
Cuốn thần tích do Đông Các đại học sĩ Nguyễn Bính soạn năm Hồng
Phúc 3 (1572) cho biết đình thôn Hội thờ Ả Lã Nàng Đê và Cao Biền. Sự tích của
các thần được ghi chép và phản ánh lại như sau:
Bấy giờ ở trang Phả Lại, huyện Quế Dương, phủ Từ Sơn, đạo
Kinh Bắc có người họ Lã tên là Tiến, vợ tên là Triệu Thị Phụng. Ông bà là người
nghèo khó quanh năm làm nghề đánh cá kiếm ăn, là người trung thuận hiếu thảo.
Ngày ấy ông bà đánh cá ở thượng lưu sông Nguyệt Đức và nghỉ lại gần ngôi miếu
thờ và đều mộng thấy có thần sai nữ thần xuống giúp dân.
Sau đó bà mang thai, đến tháng 2 năm Quý Mùi sinh một người
con gái thiên tư đĩnh dị, tướng mạo khôi kỳ bèn đặt tên là Ả Lã. Năm 16 tuổi Ả
Lã rất sáng ý, học lực ngày càng tinh thông, lại thêm có chí dũng khí phách độ
lượng hơn người. Hơn nữa, cầm kỳ thi hoạ không có thứ nào không biết, quả là một
trang thiếu nữ tài giỏi, lại có nhan sắc tuyệt vời như Hằng Nga trên cung quế.
Bấy giờ các trang tài tử văn nhân không ai vừa ý với nàng do
vậy mà duyên lành còn đợi giá. Khi ấy nào ngờ trong một đêm cả cha và mẹ nàng đều
qua đời. Nàng làm lễ mai táng xong thì gặp lúc Hai Bà Trưng dấy quân phục thù dẹp
giặc Tô Định.
Được tin này Bà Ả Lã liền tuyển mộ binh mã được ngàn người,
riêng ở bản trang có hơn năm mươi người xin theo làm gia thần. Thế rồi quan
quân làm lễ tế trời đất, lễ yết bách thần, sau đó đem quân xông ra trận, quân
lính kéo đi cờ xí tung bay rợp đường, trống chiêng dậy đất vang động như sấm.
Một hôm quân tiến đến vùng Hiệp Ký huyện Chu Diên đạo Sơn
Tây để hợp quân và bàn kế tiến đánh quân địch. Trưng Vương biết Bà ả Lã người
có tài thao lược, giàu cơ mưu, bèn phong bà làm mưu thần. Bà Ả Lã tâu rằng:
"Sai chủ tướng đem quân chia làm hai đạo Đông, Tây đi trấn giữ các thành
như thế đánh một trận thì thắng".
Bà Ả Lã mặc áo màu sặc sỡ rồi xin với Trưng Vương cho mình
làm phép tàng hình đi vào trại giặc để dò xét tình hình quân Tô Định ở các
thành như thế nào, sẽ quay về cấp báo. Chúa Trưng Trắc cùng với em gái là Trưng
Nhị đem quân đánh thắng Tô Định chiếm được sáu mươi lăm thành trì. Hai bà lên
làm Vua và ban chiếu mời các tướng lĩnh về triều mở tiệc linh đình tặng phong
cho các tướng sĩ theo thứ bậc khác nhau. Trưng Vương ban cho Bà Ả Lã thực ấp ở
huyện Đông Ngàn.
Khi bà mất Trưng Vương lệnh ban chiếu cho phép trang Đường
an phụng thờ bà. Sau này vua Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn 12 sứ quân, có đến đền bà
bái yết thấy hiển ứng linh dị do vậy từ đó về sau hàng năm đều được tế lễ. Tặng
phong là Ả Lã Nàng Đê công chúa, gia tặng là Tuệ Tĩnh phu nhân. Các sắc phục
vàng, tía, đỏ, trắng đều cấm.
Từ đó về sau thần rất linh ứng nên các đời vua sau đó đều
phong thêm cho mỹ tự. Đến đời nhà Trần quân Nguyên kéo sang xâm lược, kinh
thành bị vây hãm Trần Quốc Tuấn vâng mệnh đi cầu đảo bách thần, kính xin chủ vị
thần linh phù trợ, khi đến đền thờ bà công chúa, thấy linh ứng, sau khi dẹp
xong ô Mã Nhi vua Trần Thái Tông bèn phong cho mỹ hiệu là Diệu Quang linh ứng.
Đến khi vua Lê Thái Tổ khởi nghĩa phá tan giặc Minh là Liễu Thăng nhà vua lại
phong cho thần là Nhan Uyển cương nghị anh linh, sắc chỉ cho trang Đường an xây
miếu thờ phụng ngài. Các trang ấp quanh vùng cũng lập đền thờ vọng.
Vị thành hoàng thứ hai được tôn thờ ở đình là Cao Biền một
con người thông tuệ thao lược hiểu lịch sử địa lý làm tới chức Thị Lang được
phong chức Kiểm hiệu, Thượng thư Bộ Công, Tĩnh hải quân Tiết độ sứ, An Nam đô hộ,
kiêm Chiêu Thảo sứ hành doanh các đạo.
Khi đó giặc Linh Chiểu hết thảy đều được dẹp yên, các quận ở
Lĩnh Nam mới bắt đầu được thanh bình, bấy giờ Vương đi tuần du, thấy đường vận
chuyển trên sông nhiều chỗ nguy hiểm, dưới lòng sông có nhiều đá lớn nằm sừng sững
giữa sông bề ngang đến năm mươi mấy trượng, búa nào cũng không phá nổi.
Không biết làm thế nào, Vương bèn khấn rằng: "Đạo trời
giúp người nhu thuận, công thần giúp kẻ ngay thẳng. Nay thần khơi dòng nước biển
để giúp sinh dân, nếu không vì lợi riêng thì có khó khăn gì". Bỗng nhiên
trời tối sầm lại, gió mưa nổi lên, sét đánh mấy trăm tiếng ở nơi tảng đá to ấy.
Chỉ lát sau trời lại sáng sủa, đá đã bị nát vụn. Công việc nhờ đó mà được hoàn
thành.
Nước Nam nhớ đến công đức của Vương, nên đã có đến ba, bốn
trăm xã lập miếu thờ, chỉ riêng một hạt Bắc Ninh cũng có đến hơn trăm nơi. Các
miếu thờ Vương đều rất thiêng, cầu đảo luôn được linh ứng. Các triều đại đều
phong tặng Vương là thượng đẳng phúc thần.
Trải qua thời gian tồn tại, đình - chùa thôn Hội đã được
trùng tu sửa chữa nhiều lần, trong đó phải kể đến lần trùng tu lớn vào năm Bảo
Đại nguyên niên (1926) ghi trên thượng lương của nhà đại đình.
Đình - chùa thôn Hội hiện toạ lạc trên một khu đất rộng rãi,
thoáng mát ở đầu thôn và quay hướng Đông Nam. Theo các cụ cao tuổi trong làng
cho biết trước đây đình thôn Hội có nghi môn, bức bình phong, sân nổi và hai
dãy nhà tả hữu mạc. Nhưng do trải qua những năm chiến tranh nên hạng mục trên
không còn.
Các bộ phận cấu thành di tích của đình bao gồm nghi môn và đại
đình. Đình được bố trí theo hình chữ đinh gồm tiền tế và hậu cung. Chùa được bố
trí theo hình chữ đinh gồm tiền đường và thượng điện, xung quanh là khu vườn rộng
trồng cây ăn quả, tạo cảnh quan và bóng mát.
Nghi môn xây kiểu đơn giản. Xung quanh phía trước xây tường
bao. Tiếp đến là sân được lát gạch Bát Tràng dẫn vào nhà tiền tế là một nếp nhà
ba gian hai chái, nền lát gạch Bát Tràng. Qua ba bậc tam cấp, được xây bằng gạch
là bước vào kiến trúc chính. Nhà xây kiểu tường hồi bít đốc tay ngai, mái lợp
ngói ta, bờ nóc đắp hình lưỡng long chầu nguyệt. Hai tường hồi của tiền tế được
xây nối liền với hai trụ biểu ở phía trước.
Đỉnh trụ là hình trái giành, phần ô lồng đèn đắp nổi hình tứ
linh, dưới là thân trụ tạo vuông ba mặt để viết câu đối. Phía trước mở ba cửa
làm kiểu ván bưng chia đều ba gian, hai chái phía trước trổ cửa chữ thọ để lấy
ánh sáng. Tiền tế có bốn bộ vì được kết cấu theo kiểu "vì kèo quá
giang".
Hậu cung là một nếp nhà một gian chạy dọc nối liền với gian
giữa tiền tế tạo thành chữ đinh, mái lợp ngói ta, nền lát gạch Bát Tràng. Chính
giữa xây bệ cao khoảng 1,5m bên trên bài trí ngai thờ Thành hoàng và các đồ thờ
tự khác.
Điện thờ thần tướng Ả Lã Đàng Đê trong đình làng Hội
Chùa được xây dựng cùng hướng với đình và có kết cấu kiến
trúc kiểu chữ đinh gồm tiền đường và thượng điện.
Tiền đường gồm năm gian, xây kiểu tường hồi bít đốc tay
ngai, hai đầu đốc đắp hình đấu, mái lợp ngói ta, bờ nóc, bờ dải đắp kiểu bờ
đinh. Hai tường hồi được xây kéo ra khoảng 50 cm, nối với hai cột trụ biểu cao
gần ngang nóc mái, hai cột trụ được làm đơn giản, trên đỉnh là hình đấu, phần
ô lồng đèn để trơn, thân bổ trụ đắp đôi câu đối. Phía trước mở hai cửa, cánh cửa
làm kiểu "ván bưng", bậc thềm xây nhất cấp.
Nền tiền đường xây cao hơn so với sân 15cm. Bộ khung đỡ mái
tiền đường gồm sáu bộ vì làm kiểu "giá chiêng kẻ truyền", mái phân
"thượng tam hạ tứ". Các cột gỗ tròn đỡ mái có hình đòng đòng, được kê
trên các chân đá xanh mịn gồm hai lớp, lớp trên hình tròn, lớp dưới hình
vuông, nền nhà lát gạch chỉ.
Thượng điện là nếp nhà dọc một gian nối với gian giữa của tiền
đường tạo thành chữ đinh. Bộ khung đỡ mái với hai bộ vì, bộ vì ngoài làm kiểu
"cốn mê", trên có khắc văn chữ triện, bộ vì bên trong làm kiểu
"chồng rường" đơn giản.
Toà thượng điện được tạo bởi những lớp bệ gạch cao dần từ
ngoài vào làm thành Phật điện gồm các lớp tượng: Lớp thứ nhất là tượng Tam Thế,
có tên đầy đủ là "Tam thế thường trụ diệu pháp thân" tượng trưng cho
sự tồn tại của nhà Phật trên trục thời gian quá khứ, hiện tại và vị lai.
Lớp thứ hai là tượng ADi Đà. Lớp thứ ba là tượng Quan Âm chuẩn
Đề (Bồ tát và tượng Quan Âm tống tử). Lớp thứ tư là tòa Cửu Long và tượng
Thích Ca Sơ sinh. Phía ngoài tiền đường, bên trái là ban thờ Đức Ông, bên phải
là ban thờ Đức Thánh Hiền.
Trong các pho tượng thờ tại di tích, đáng chú ý là ba pho
Tam thế, có kích thước và hình dáng giống nhau, không lớn lắm, có những tướng tốt
đẹp lộ ra ngoài như đỉnh đầu có gồ thịt nổi cao như búi tóc, tóc xoắn ốc nên
dân gian gọi nôm là"ba ông bụt ốc", tai dài, tay dài, mặt tròn, mắt
khép hờ nhìn xuống, nhân trung sâu, miệng phảng phất nụ cười. Sống mũi tượng
thẳng, hơi dẹt, mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XIX.
Hiện nay đình chùa thôn Hội còn bảo lưu được hai bia đá: ‘‘Hậu
phật bi ký'' niên hiệu Cảnh Thịnh nguyên niên (1793) ; bia ‘‘Ký kỵ bi danh''
niên hiệu Tự Đức 5 (1852) và ba đạo sắc Duy Tân 3 (1909) ; Duy Tân 5 (1911) ;
Khải Định 2 (1917) cùng các pho tượng tròn ở chùa Sùng Kính phần nào đã góp phần
hiểu thêm về lịch sử mỹ thuật, nghệ thuật điêu khắc Phật giáo Việt Nam thế thế
kỷ XIX.
Thời kỳ cách mạng kháng chiến di tích chùa thôn Hội còn là
nơi hoạt động của Việt Minh, nơi tập kết thương binh và là nơi thành lập chi bộ
đầu tiên của xã Cổ Bi. Các cột ở chùa bằng gỗ lim bên trong rỗng là nơi cất giấu
vũ khí, tài liệu, cờ đỏ sao vàng của trung đội du kích làng Hội.
Đình chùa thôn Hội không chỉ là một di tích lịch sử nghệ thuật
hàm chứa nhiều giá trị lịch văn hóa và lịch sử Phật giáo mà còn là một di tích
cách mạng kháng chiến của địa phương. Đình – Chùa Thôn Hội được UBND thành phố
Hà Nội ra quyết định xếp hạng di tích lịch sử năm 2009.