Đình Thủ Pháp ở thôn Thủ Pháp, xã Đoàn Kết (Thanh Miện) là nơi hiếm hoi ở tỉnh Hải Dương thờ Tản Viên Sơn Thánh. Bên trái ngôi đình có đền thờ Ma Thị Cao Sơn thần nữ (mẹ nuôi của ngài Tản Viên Sơn Thánh).
Tản Viên Sơn Thánh (tục gọi Sơn Tinh), con rể Vua Hùng Vương
thứ 18 (Hùng Duệ Vương) nổi tiếng ngay thẳng, chính trực, có công lớn chống
quân Thục, cứu dân độ thế.
Ngôi đình hiếm có ở tỉnh Hải Dương
Đình Thủ Pháp ở thôn Thủ Pháp, xã Đoàn Kết (Thanh Miện) là
nơi hiếm hoi ở tỉnh ta thờ Tản Viên Sơn Thánh. Ngôi đình tọa lạc trên khuôn
viên rộng rãi, cổ kính, thoáng đãng, phía trước còn có ao hồ tạo phong cảnh hữu
tình. Bên trái ngôi đình có đền thờ Ma Thị Cao Sơn thần nữ (mẹ nuôi của ngài Tản
Viên Sơn Thánh).
Đình Thủ Pháp - nơi thờ Tản Viên Sơn Thánh
Ảnh: PV
Đình được xây dựng vào thời Lê, được trùng tu lần đầu vào thời
Nguyễn (năm Nhâm Tuất 1922) với quy mô rất lớn gồm 5 gian tiền bái, 5 gian
thiêu hương, 3 gian hậu cung, hai bên có 2 dải vũ (mỗi dải vũ gồm 5 gian). Trải
qua thời gian và do chiến tranh tàn phá nên ngôi đền chỉ còn 3 gian.
Các cột, xà, bẩy, cốn kẻ trong đình đều làm bằng gỗ lim và
được chạm trổ tứ linh, tứ quý, hoa lá cách điệu tinh tế. Bờ nóc ngôi đình được
đắp nổi lưỡng long chầu nguyệt, đầu rồng dữ tợn, râu dài cong vút, thân rồng cuộn
5 khúc.
Trong đền có ban thờ công đồng, nhang án và các đồ thờ tự
như bát hương, mâm bồng, bát bửu, hạc thờ. Ở hậu cung, chính giữa có ngai thờ Tản
Viên Sơn Thánh rộng 1 m, cao 2 m. Hai bên có 2 bát hương thờ 2 vị tướng có công
theo phò Sơn Thánh đánh đuổi quân Thục. Trước đây, di tích đình Thủ Pháp có nhiều
đồ tế tự và những cổ vật có giá trị như bia ký, sắc phong, thần tích, câu đối,
đại tự, kiệu bát, kiệu long đình.
Nhưng qua thời gian và chiến tranh, một số đồ tế tự đã bị thất
lạc. Hiện nay, trong di tích còn các hiện vật như: Bản thần tích bằng chữ Hán
nói về sự tích Sơn Thánh Tản Viên, sắc phong triều Khải Định, 1 bức trâm chữ
Hán, một kiệu bát cống, 7 bát bửu, 2 án thư.
Truyền thuyết về Tản Viên Sơn Thánh có rất nhiều dị bản.
Song qua nội dung bản thần tích và truyền thuyết dân gian có thể tóm lược về
thân thế của ngài như sau: Đời Hùng Vương thứ 18 ở động Lăng Sương (nay là đền
mẫu Lăng Sương, xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, Phú Thọ) có vợ chồng ông Nguyễn
Cao Hành và bà Định Thị Vân (Đen) sống hiền lành, nhân đức nhưng tuổi đã cao mà
chưa có con.
Một lần ra sông nhìn thấy rồng hiện xuống uống nước, lão bà
cảm động, về nhà mang thai và 14 tháng sau thì sinh được một cậu con trai hình
mạo khôi ngô, khác hẳn người thường. Được 100 ngày, ông bà đặt tên con là Nguyễn
Tuấn (sau đổi tên là Tùng). Dân tình ai cũng thấy lạ, vịnh thành 4 câu thơ:
“Lăng Sương tạo dựng con người ngọc/Gửi thác rồng thiêng giáng hạ trần/Thái bà
cũng được trời gọi mẹ/Sau này lo nghiệp lớn thế gian”.
Nguyễn Tuấn lên 6 tuổi thì cha qua đời. 7 tuổi ngài theo mẹ
lên núi Tản Viên và gặp được bà Ma Thị Cao Sơn (con gái thần núi). Sau khi mẹ
qua đời, Nguyễn Tuấn ở lại với bà Ma Thị Cao Sơn và xin nhận làm con nuôi.
Một hôm, Nguyễn Tuấn
lên núi đốn củi gặp thần Thái Bạch Lão Quân, được thần trao cho một cây gậy
sinh tử và dạy cho một câu thần chú để cứu đời. Sau khi nhận gậy thiêng, ngài cứu
sống một con rắn vốn là con Long Vương bị trẻ chăn trâu đuổi đánh, được Long
Vương đền ơn biếu một cuốn thiên thư, xem có thể hiểu thấu mọi việc trên trời
dưới đất.
Nghe các cụ cao niên trong làng kể, trong một lần về động
Lăng Sương, Nguyễn Tuấn cùng mẹ nuôi đi qua quê hương Thủ Pháp (trước gọi là
thôn Vắp) và nghỉ chân tại khu đất cao nhất của làng, cạnh sông Cửu An. Tức thì
có 500 con voi và hổ tới quỳ phục xung quanh.
Ngài giơ gậy thiêng lập tức voi về nam, hổ về bắc. Dân làng
vui mừng ra thỉnh tấu nhã ý muốn làm cơm mời 2 mẹ con. Thấy dân làng có tâm nên
Nguyễn Tuấn đã dùng gậy thiêng ban phép “cầu gì được nấy”.
Xưa cả xã Đoàn Kết chỉ là một vùng đất bãi, xung quanh bốn bề
sông nước, cây cối, cỏ dại mọc um tùm. Dân làng xin ban đất đai màu mỡ, mưa thuận
gió hòa, cấy cày, làm ăn được thuận lợi.
Ước nguyện của dân làng ngay lập tức được ngài thực hiện.
Hai mẹ con còn dạy dân làng cách làm ruộng, săn bắn, kéo vó, múa hát… Từ đây,
việc sinh sống, làm ăn của người dân thuận lợi và ngày càng thịnh vượng. Từ chỗ
chỉ có vài chục hộ dân lúc ban đầu, vùng đất này ngày càng có nhiều gia đình rủ
nhau tới sinh sống.
Nguyễn Tuấn sau này đã gặp và được Vua Hùng Duệ Vương gả cho
công chúa Ngọc Hoa xinh đẹp, đồng thời phong làm Tản Viên Sơn Thánh. Về sau
quân Thục sang đánh chiếm nước ta, vua sai thần Tản Viên đi đánh dẹp.
Nhờ có gậy thần, Tản Viên Sơn Thánh phá được quân Thục. Vua
Hùng thấy con rể là người tài giỏi bèn trao cho quyền trị nước. Sơn Thánh chỉ
nhận chức ấy trong mấy tháng rồi xin vua cho đi chu du khắp nơi cứu dân độ thế.
Tản Viên Sơn Thánh hóa về trời vào ngày 15 tháng giêng giữa
thanh thiên bạch nhật. Dân làng tưởng nhớ công ơn nên lập đền thờ (nghè Vắp) bằng
gỗ lim ngay tại khu đất ngài ngự, quanh năm hương khói phụng thờ. Tuy nhiên đến
năm 1949, nghè Vắp đã bị thực dân Pháp phá hủy.
Chui gầm kiệu thánh
Nhân dân Thủ Pháp đã làm lễ rước ngài từ khu nghè Vắp về
đình Thủ Pháp hiện tại để hương khói, thờ phụng. Để tưởng nhớ công ơn to lớn của
Sơn Thánh Tản Viên, xưa kia nhân dân địa phương thường mở lễ tế vào các tiết
trong năm: 15 tháng giêng (ngày Sơn Thánh hóa về trời), dân làng dùng 2 con
trâu, 6 vò rượu, 40 đấu gạo, hoa quả, bánh, trầu cau để dâng cúng Sơn Thánh.
Ngày 12/3 âm lịch (tương truyền là ngày Sơn Thánh đi qua
làng Thủ Pháp), nhân dân thường dùng đồ chay để tế lễ. Ngày 25/7 âm lịch (ngày
giỗ Ma Thị Cao Sơn thần nữ) cũng dùng đồ chay để cúng tế. Ngày nay, lễ hội đình
Thủ Pháp chỉ diễn ra từ ngày 12 đến 14/3 âm lịch hằng năm.
Vào ngày 12 (mở cửa đình), dân làng tổ chức rước kiệu Tản
Viên Sơn Thánh và Ma Thị Cao Sơn thần nữ từ đình Thủ Pháp ra nền đất xây dựng
nghè Vắp trước kia để tế lễ. Các hộ dân sinh sống hai bên đường kiệu thánh đi
qua đều sắm hoa, quả, trà, rượu, bánh kẹo bày ra trước cửa nhà để thắp hương tưởng
niệm công đức.
Người dân trong làng từ già tới trẻ lần lượt chui qua gầm kiệu
Tản Viên Sơn Thánh với mong muốn được ngài che chở, ban cho sức khỏe, may mắn
và tài lộc trong suốt một năm học tập và công tác.
Sau khi làm lễ tại khu di tích nghè Vắp, dân làng lại tổ chức
rước kiệu Sơn Thánh và mẹ nuôi về đình Thủ Pháp. Các hoạt động dâng hương, tế lễ,
chiêm bái tiếp tục diễn ra đến hết ngày 14/3. Xung quanh lễ hội, làng Thủ Pháp
tổ chức nhiều hoạt động sôi nổi như: giao lưu văn nghệ, múa lân, tổ chức trò
chơi bịt mắt bắt vịt, cờ người…
Đình Thủ Pháp như một minh chứng lịch sử rõ nét về thời kỳ
Hùng Vương. Việc bảo tồn và phát huy giá trị ngôi đình thể hiện đạo lý tốt đẹp,
lòng biết ơn sâu sắc của các thế hệ người Việt đối với cha ông đã có công dựng
nước và giữ nước.
Tiến Mạnh