Đình Thượng Đồng nằm ở ven sông Đuống, bên cạnh chùa Thượng Đồng, thuộc tổ dân phố số 7, phường Phúc Lợi, quận Long Biên, thành phố Hà Nội, thờ phụng thành hoàng làng là danh tướng Trịnh Chính, một trong ba anh em họ Trịnh đã có công phò giúp vua Lý Nam Đế đánh giặc Lương.
Trước đây, vùng đất làng Thượng Đồng là trang Nông Vụ Thượng,
tổng Đặng Xá, huyện Gia Lâm, phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Năm 1945, Thượng Đồng
thuộc xã kháng chiến có tên gọi là Trường Chinh, sau sáp nhập với Nông Vụ Đông
thành thôn Thượng Đồng, xã Hội Xá, huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội.
Đình Thượng Đồng thuộc địa phận phường Phúc Lợi, quận Long
Biên, Hà Nội.
Bản thần tích còn lưu giữ trong đình cho biết: Thời vua Lý
Nam Đế, ở Hoằng Hoá, Hải Hoa, châu Hoan (tức Thanh Hoá ngày nay) có ông bà Trịnh
Doan và Nguyễn Thị Kim sống hoà thuận với nghề buôn bán đóng bè xuôi ngược các
nơi. Ông bà hiếm con nên năng cầu cúng, làm nhiều việc thiện.
Quả nhiên phúc đến, bà có mang sau 12 tháng sinh ra một bọc
có 3 người con, 2 trai, 1 gái, hôm ấy là ngày 12 tháng 2 âm lịch. Do mệt nhọc
mà bà đã mất sau 3 ngày. Vì buồn và cũng là để kiếm kế sinh nhai, ông Trịnh
Doan đã mang cả 3 người con xuống thuyền đi buôn bán.
Thuyền của ông ngược sông Thiên Đức (tức sông Đuống) đến đoạn
gần trang Nông Vụ thì gặp gió to, sóng dữ làm vỡ thuyền, ông nhường ván thuyền
cho các con nên chết đuối. Ba người con nằm trên ván thuyền dạt vào bờ được
nhân dân trong trang vớt về nuôi.
Người em gái là Quế Nương về trang Trung, người con thứ ba
là Trịnh Trí về trang Hạ, còn người anh cả là Trịnh Chính về trang Thượng. Xác
của người cha cũng được vớt về chôn ở phía tây của thôn hiện nay.
Người anh cả Trịnh Chính có tướng mạo kỳ khôi khác người thường;
mặt rồng, thân mạnh như hổ, tóc vàng quá gối. Năm họ 13 tuổi, cả 3 anh em ông đều
có sức khoẻ phi thường lại thêm tài biến hoá, tiếng tăm lừng lẫy trong thiên hạ.
Đến năm 15 tuổi thì nước có giặc đến xâm lăng. Quân giặc
đông, thế mạnh đã chiếm cứ nhiều vùng trọng yếu, nhà vua phải thân chinh cầm
quân đi dẹp giặc.
Vua đi qua sông Thiên Đức, nhớ tới 3 anh em họ Trịnh, liền
ghé thuyền vào hỏi, được các bộ lão tàu trình tường tận, vua rất mừng đã cho
thu nạp 3 anh em cùng với dân trong trang xung phong tòng quân. Nhà vua giao
cho 3 anh em đóng đồn tại thôn Thượng, Trung, Hạ (hiện nay còn dấu tích nơi vua
đóng ở châu Giang Biên gọi là Hội đồng cung).
Ba anh em dẫn quân xung trận đánh tan quân địch, giết được
tướng giặc, đánh tan đạo quân xâm lược. Tin vui về tới triều đình, vua mở tiệc
mừng công và phong thưởng chức cho tướng sĩ. Trịnh Chính được vua phong chức Đệ
nhất Tá tước quốc hầu rồi gia phong làm Thượng chỉ gia thần.
Sau lễ mừng công, hai anh em Trịnh Chính, Trịnh Trí được vua
sai đi tuần thú. Khi về đến đoạn sông Thiên Đức cạnh trang Nông Vụ trời bỗng nổi
mưa to, gió lớn, sấm sét dữ dội, hai anh em ông cùng vào Thượng đồn. Mây mưa tạnh,
nhân dân lấy làm lạ kéo đến Thượng đồn thấy hai người đã hoá, hôm đó là
ngày 15 tháng 7 âm lịch.
Quế Nương nghe tin liền đến thăm viếng, rồi cũng tự vẫn
theo. Nhân dân bèn tâu vua, vua vô cùng thương xót cho chôn cất ba anh em theo
nghi lễ bề tôi có công lớn đối với đất nước.
Trịnh Chính được vua cho lập đền thờ tại trang Thượng (tức
Thượng Đồng). Vua còn phong thêm cho ông làm Đương cảnh Thành hoàng Tá quốc
Hùng uy Dự hoà Bảo chính Thượng đẳng phúc thần.
Hai người em cũng được lập đền thờ ở trang Trung và trang Hạ.
Trong 9 bề tôi khai quốc công thần thì chỉ có một mình Trịnh Chính được phong
là Đại vương.
Các đời vua tiếp theo đều phong tặng sắc cho Trịnh Chính và
hai em của ông là Thượng đẳng phúc thần. Dân làng cứ theo lệ mà thờ cúng đến
ngày nay.
Trải qua những thăng trầm của lịch sử, gốc cũ của ngôi đình
hiện nay không còn nữa. Nhiều năm trước dân làng đã rước ngai thờ Thành hoàng
cùng di vật ở đình về thờ tại chùa Thượng Đồng trong một mô hình tín ngưỡng tiền
Thần hậu Phật rất nghiêm trang. Năm 2000, nhân dân địa phương đã hằng tâm, hằng
sản dựng lên ngôi đình nhỏ kiểu chữ “đinh” gồm 1 gian 2 chái, có Hậu cung 2
gian, mái lợp ngói mũi hài nằm bên phải chùa và đã được dân rước ngai thờ cùng
di vật về yên vị tại đây.
Đình Thượng Đồng hiện còn bảo lưu được nhiều di vật phong
phú về loại hình, đa dạng về chất liệu, có giá trị nhiều mặt, đó là 9 đạo sắc
phong, sắc sớm nhất có niên hiệu Cảnh Hưng thứ 28 (1767), 2 sắc quý thời Quang
Trung thứ 4 (1791) và Cảnh Thịnh thứ 2 (1784). Hai ngai thờ và 3 bài vị sơn son
thếp vàng chạm khắc cầu kỳ, một tượng Thành hoàng làng oai phong mang dáng võ
tướng ngồi trên ngai, vai vuông mắt nhìn thẳng, tay trái úp gối, tay phải cầm hốt,
đầu đội mũ cánh chuồn, thân khoác chiến bào; trên áo có chạm nổi hình long, phượng,
hổ phù... Tất cả đều mang phong cách nghệ thuật tạc tượng thế kỷ XIX, XX.
Cụm di tích đình - chùa Thượng Đồng đã được Bộ Văn hoá và
Thông tin xếp hạng di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật năm 1993./.
Theo Hà Nội Danh thắng và Di tích tập 02
Nguồn: Người Hà Nội