Đình Thượng và đình Hạ thuộc thôn Khảm Lâm, xã Phúc Lâm, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội. Đình Thượng tọa lạc ở đầu làng, đình Hạ ở cuối làng. Cả hai di tích này đều thờ thành hoàng làng là: Công chúa Quế Hoa, Đức Thánh Cả - Đỗ Lang, Đức Thánh Hai - Thiện Sỹ.
Theo cuốn thần phả Phúc Lâm do Hàn lâm Lễ bộ Đông các Đại học
sĩ Nguyễn Bính soạn năm Hồng Phúc thứ nhất (1572). Thời Lưỡng Hán, có người họ
Đặng, tên huý là Vận được phong chức Tư ấm kết hôn với người cùng quận là con
gái họ Tạ, tên là Cẩn. Hai vợ chồng luôn luôn tích thiện, không nghĩ đến tư lợi.
Hai vợ chồng đã ngoài bốn mươi mà chưa có con trai, nên nhận người cháu là Đỗ
Lang về nuôi.
Một thời gian sau, ông bà sinh được một người con trai, đặt
tên là Thiện Sỹ. Năm Thiện Sỹ 18 tuổi, cha mẹ đều qua đời, ba năm chịu tang đã
vẹn tròn đạo hiếu. Khi ấy, Giao Châu là vùng đất phì nhiêu mà lễ giáo thì chưa
thật rõ ràng. Bấy giờ, tù trưởng các châu làm loạn khiến lòng dân không yên.
Hoàng đế phong cho Thiện Sỹ chức Đại tư đồ, gia phong tước
Quận công, tức khắc lên đường dẹp loạn. Thiện Sỹ giao cho Đỗ Lang điều hành
trang Phú Lâm và dạy dân công việc nông tang canh cửi. Rồi ngài chia quân thành
nhiều đạo chiếm cứ các nơi xung yếu, sau đó viết thư dụ hàng với lời lẽ nhân
nghĩa. Quân giặc thấy vậy, cảm phục hiểu ra, đã cởi giáp quy hàng.
Vào tuổi bảy mươi, một hôm ngài Thiện Sỹ đang ngồi trong phủ
đường, chợt có ánh hào quang màu tía từ trong người phát ra, bay lên trời biến
mất. Đỗ Lang thay ngài cai quản công việc trong phủ. Tới đời Đông Đế, Đỗ Lang
được phong chức Đô hộ. Khi Vương Mãn làm loạn, Đỗ Lang cầm quân trấn giữ môn
quan, rồi đem quân tới Sơn Nam. Thế giặc mạnh, Đỗ Lang rút quân về trang Phú
Lâm, trú quân tại đền thờ thần và làm lễ bái yết.
Đêm ấy, tại đền thờ, Đỗ Lang mông lung giấc ngủ thấy một người
tự xưng là Công chúa Quế Hoa ở miếu trang Phú Lâm, vốn là con Thiên đế. Đỗ Lang
tỉnh dậy mới biết đó là mộng. Ngay trong đêm ấy chợt thấy quân mình đang phòng
ngự tại ấp ngoài trở về cấp báo quân Hán đang vây hãm, tình thế vô cùng hiểm
nghèo. Ngài hoá bên sông, sóng dậy cuồn cuộn, một con giao long hiện lên làm
quân Hán hoảng sợ mà rút chạy.
Đình Thượng bố cục theo kiểu chữ “nhất”, phía trước có sân
đình, hàng cây cổ thụ, xa xa là dòng sông Đáy. Đại bái đình là một tòa nhà dọc
được làm theo kiểu tiền đạo hậu đốc với 3 mái chảy lợp ngói ri. Bờ nóc đắp bờ
đinh, bờ dải có xây giật cấp.
Thánh mẫu Quế Hoa Công chúa triều đại Nhị vua Hai Bà Trưng
Vào bên trong Đại bái được chia làm 3 gian chính không đều
nhau. Tương ứng với các gian là các bộ vì đỡ mái được làm khác nhau: bộ vì mái
đao được làm theo kiểu ”Thượng ván mê, hạ cốn mê bẩy”. Ván mê là một tam giác
cân có hai cạnh huyền được cắt khúc đỡ hoành thượng, trung tâm ván mê được chạm
mặt hổ phù. Mặt hổ phù được chạm một cách tinh xảo, mắt lồi, sừng nai tại thú,
mũi sư tử miệng ngậm chữ “thọ”.
Phần hạ là hai bức cốn được làm theo kiểu tam giác cân có cạnh
huyền được cắt khấc đỡ hoành hạ, trong lòng tam giác cân được chạm nổi, chạm
bong kênh các tích tứ linh, chạm nổi hình long cuốn thuỷ. Nghệ thuật tạo tác tỉ
mỉ mang phong cách thế kỷ XIX.
Hai bộ vì tiếp theo được làm theo kiểu “Kèo, kẻ, bẩy” trên mặt
bằng 4 hàng chân cột. Gian thứ 2 có mở cửa với 3 cửa đi chính phía trước đặt một
hương án gỗ chạm, sơn son thếp vàng, phía trên bày đồ thờ tự, 2 bên có đôi hạc
và bộ bát bửu. Phía trên treo một bức hoành phi gỗ chạm 4 chữ Hán.
Đình Hạ kết cấu theo kiểu chữ “nhị” bao gồm các hạng mục
công trình: Đại bái, Hậu cung, Tả mạc. Đại bái là một hạng mục công trình gồm 5
gian, 2 mái tường xây hồi bít đốc lợp ngói ri.
Quán Xối Khảm Lâm. Đây là di tích liên quan đến triều đại Nhị vua Hai Bà Trưng, thờ phụng Vĩnh Hoa công chúa.
Nhìn bên ngoài, bờ nóc đắp bờ đinh, chính giữa bờ nóc đắp lưỡng
long chầu nguyệt, hai đầu bờ nóc đắp hai con rồng Makara ngậm bờ nóc, bờ dải đắp
bờ đinh. Cuối bờ dải xây giật cấp kiểu tay ngai.
Bên trong toà Đại bái tương đương với năm gian là 6 bộ vì được
làm thống nhất theo một kiểu “kèo kẻ quá giang trốn cột”, toàn bộ kết cấu mái
được chịu lực trên quá giang. Từ Đại bái qua một khoảng sân rộng lát gạch bát cổ
là tới toà Hậu cung 5 gian nhà ngang, tường xây hồi bít đốc, hai mái chảy lợp
ngói ri.
Nhìn bên ngoài, bờ nóc, bờ chảy đắp bờ đinh, chính giữa bờ
nóc đắp mặt trời, hai đầu bờ nóc đắp hai đầu định và hai con rồng Makara ngậm bờ
nóc. Cuối bờ dải xây giật cấp kiểu tay ngai bằng vôi vữa.
Vào bên trong, các bộ vì đỡ mái được làm cùng một kiểu kèo kẻ
quá giang trốn cột. Các cấu kiện gỗ ở dây chủ yếu được bào trơn đóng bén tiết
diện vuông, thiên về độ bền chắc tạo không gian thoáng mát cho nơi thờ thánh.
Hiện nay đình Thượng và đình Hạ còn lưu giữ: 1 hoành phi, 2
bát hương gốm, 2 bộ long ngai bài vị chạm rồng mang phong cách nghệ thuật thời
Nguyễn, 1 kiệu rước văn.
Lễ hội của làng được tổ chức vào ngày 6 tháng 03 âm lịch hằng
năm.
Cụm di tích đình Thượng, đình Hạ đã được UBND tỉnh Hà Tây xếp
hạng di tích lịch sử - văn hoá năm 2005./.
Theo Hà Nội Danh thắng
và Di tích tập 02