Đình Tiên Hội, xã Đông Hội, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội tọa lạc gần di tích Cổ Loa. Đình thờ tướng quân Cao Na phò giúp vua Thục An Dương Vương chống Triệu Đà, sau được nhà Lê ban sắc phong Thái Hoàng La Ngạn Cao Minh Sỹ Thượng Đẳng Tối Linh Thần.
Làng Tiên Hội nay là một trong sáu thôn của xã Đông Hội, huyện
Đông Anh; đầu thế kỷ XIX là một xã độc lập thuộc tổng Hội Phụ, huyện Đông Ngàn,
phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc (từ 1831 là tỉnh Bác Ninh).
Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, vẫn là một xã độc lập. Từ năm
1949, xã nhập với các xã: Hội Phụ, Song Đông (Đông Ngàn, Đông Trù) thành xã
Đông Hội, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Từ tháng 6 - 1961, xã Đông Hội cùng một
số xã của huyện Từ Sơn được chuyển về Hà Nội.
Tiên Hội ở phía Bắc xã Đông Hội. Đây là một làng cổ, từng được
truyền thuyết nhắc đến gắn với việc xây thành xây thành Cổ Loa nơi các nàng
tiên vào ban đêm từ trên trời bay xuống, tụ họp lại thành đàn để gánh đất giúp
An Dương Vương. Song cứ đến nửa đêm, yêu quái lại hóa thành gà trắng cất tiếng
gáy báo sáng. Các nàng tiên tưởng trời sáng thật vội bay lên trời, đoạn thành
do các nàng tiên xây đắp lại bị phá nên thành xây mãi chẳng xong. Về sau, An
Dương Vương nhờ thần Kim Quy diệt gà trắng nên công vịêc của các nàng tiên mới
không bị bỏ dở như trước. Nơi các nàng tiên họp lại để đi gánh đất gọi là Quần
Tiên hay Tiên Hội, chính là gốc của làng bây giờ.
Vì thế, đến nay, dân làng vẫn có tục không nuôi gà trắng.
Năm 1960, đã phát hiện Di chỉ khảo cổ học Tiên Hội với trên 50 hiện vật, gồm vỏ
trấu hình tròn, mảnh chõ xôi, hạt trám, tượng đầu bò, xương trâu, xương lợn, lưỡi
câu bằng đồng mũi tên đồng, mảnh gốm có dấu đồ đan... Niên đại của di chỉ cách
ngày nay trên dưới 3000 năm, chứng tỏ thời đó, người Tiên Hội đã cư trú đông
đúc, sống bằng nghề trồng lúa, chăn nuôi, săn bắt và săn bắt, làm gốm. Có thuyết
cho rằng, lớp cư dân này vốn là những nhân công được huy động để đắp thành Cổ
Loa, sau khi thành xây xong vẫn ở lại lập thành làng xóm.
Trước Cách mạng, dân làng tiên Hội sống chủ yếu bằng nông
nghiệp, có kinh nghiệm trồng khoai sọ - loại khoai cho năng suất cao, củ trắng,
nhiều bột và thơm. Ngoài ra còn có cây thầu dầu để ép làm dầu thắp. Về chăn
nuôi, dân làng có kinh nghiệm nuôi lợn ỷ chân thấp, nhiều thịt nạc, lợn Sông Đà
chân cao, mau lớn, nhiều mỡ. Các nghề thủ công nổi bật là nghề ép thầu dầu trên
máy quay tay trục gỗ lót sắt. Xưa kia, những người làm nghề lập thành phường ép
dầu để giúp nhau sản xuất, có miếu thờ tổ nghề ép dầu ở cạnh chùa.
Làng Tiên Hội gồm nhiều dòng họ: Đặng, Lê, Ngô, Nguyễn, Bùi.
Khu cư trú được quy hoạch theo kiểu chữ “Điền”: đường làng gồm hai trục chính
hình chữ “Thập”. Từ trục đường chính này có các ngõ đi về ba xóm: xóm Trên (có
cổng Nổ), xóm Bàng (cổng Bàng) và xóm Đình (cổng Đình). Trai đinh trong làng được
chia thành hai giáp: Đông và Đoài. Năm 1926, làng chỉ có 688 nhân khẩu.
Làng Tiên Hội có ngôi đình được dựng lại vào năm Bính Tý đời
Bảo Đại (1936). Đình gồm ba gian, hai dĩ, thờ danh tướng Cao Na, tương truyền là cháu của
tướng quân Cao Lỗ. Ông là người văn võ toàn tài, được An Dương Vương cử làm Đô
Thống nguyên soái, tham gia nhiều trận đánh nhau với quân của Triệu Đà, lập được
nhiều công. Ông đã nhiều lần hành quân qua đất Tiên Hội nên sau khi chết được
được dân làng tôn làm thành hoàng. Lễ thần được tổ chức chính vào ngày mồng 10
tháng Ba.
Đình Tiên Hội, thờ phụng tướng Cao Na triều đại An Dương Vương. Ảnh Đền Miếu Việt
Làng Tiên Hội xưa kết nghĩa với làng Văn Tinh (nay thuộc xã
Xuân Canh cùng huyện Đông Anh). Việc kết nghĩa không chỉ đóng khung trong các
nghi thức, các dịp hội hè mà còn thêt hiện ở việc giúp nhau khi một trong hai
bên có công việc. Năm 1936, Tiên Hội dựng đình, được “Quan Anh” Văn Tinh giúp
chuyển gỗ, gạch, đá từ bến đò Xuân Canh về làng.
Tiên Hội có vinh dự lớn được Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm và
trồng cây đa lưu niệm tại đầu làng vào ngày 31 - 01 - 1965.
TS. Bùi Xuân Đính