Đình Tri Chỉ, xã Tri Trung, huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội thờ phụng Linh Lang Đại vương, tức hoàng tử Hoằng Chân nhà Lý, Đông Hải Thượng đẳng thần, Thủy Hải Long vương, Thành Hoàng Chi thần.
Ngôi đình có kiến trúc điêu khắc độc đáo mang phong cách cuối
thời Lê Trung hưng. Đình Tri Chỉ là một điểm du lịch di sản có cảnh quan thơ mộng
và hấp dẫn của huyện Phú Xuyên.
Nhớ ơn người xưa
Làng Tri Chỉ có tên nôm là Chảy (đọc chệch là làng Chể). Tên
gọi "Tri Chỉ" nghĩa là “biết dừng” (tri: biết; chỉ: dừng), thể hiện lối
sống khiêm nhường đã có từ ngày lập làng của người dân.
Theo thần phả, đình Tri Chỉ thờ Linh Lang Đại vương, tức
hoàng tử Hoằng Chân nhà Lý. Ngài vốn là một võ tướng, tham gia chiến đấu và hy
sinh trong trận chiến chống quân Tống xâm lược trên sông Như Nguyệt. Vua thương
tiếc, sắc phong ngài là Đại vương, ban mỹ tự “Thanh lăng hựu chính hiển phu hoằng
hợp, Dực bảo trung hưng”, sắc dụ cho nhiều nơi thờ phụng, trong đó có đình Tri
Chỉ và được dân làng tôn làm Thành hoàng làng.
Ngoài thờ Thành hoàng làng Linh Lang Đại vương, đình Tri Chỉ
còn phối thờ Đông Hải Thượng đẳng thần, Thủy Hải Long vương, Thành Hoàng Chi thần
- những người học rộng tài cao, từng theo phò các đời vua Lê từ kháng chiến chống
quân Minh xâm lược thế kỷ XV.
Thần Đông Hải là Nguyễn Phục, có tài vận tải binh lương. Trong
lần vua Lê Thánh Tông mang quân đi đánh Chiêm Thành, Nguyễn Phục giữ chức Đô chỉ
huy sứ để vận tải vũ khí lương thực.
Một lần, đi đường biển gặp bão, ông cho thuyền trú vào nơi
an toàn đợi bão tan. Thuyền quân lương bị chậm vài ngày, ông bị khép vào tội
khi quân và xử chém. Sau vua nghe được tấu trình, nhờ có quân lương của Nguyễn
Phục mà đại quân thắng lớn. Vua đã có chỉ minh oan cho ông, sắc phong là Đông Hải
Đại vương, giao cho dân làng Tri Chỉ thờ phụng.
Bên cạnh đó, đình Tri Chỉ còn thờ hai vị tổ nghề làm áo tơi
là Nghiêm Thắng và Đặng An. Nhờ có nghề này, đời sống của người dân được ấm no.
Độc đáo kiến trúc, phá cách điêu khắc
Đình Tri Chỉ được khởi công xây dựng năm 1771, đời vua Lê Hiển
Tông. Trải qua 3 lần trùng tu vào các năm 1816, 1940 và 1988, tuy có nhiều lớp
kiến trúc kế thừa, bổ sung nhưng cơ bản vẫn giữ được kiến trúc tổng thể thời Lê
và mang nhiều nét phong cách nghệ thuật thời Nguyễn.
Đình nhìn hướng tây. Trước mặt là hồ bán nguyệt rộng lớn,
sau là hào nước, xung quanh có rặng cây cổ thụ. Đình có kiến trúc độc đáo, hai
bên hồi xây kiểu "vỉ ruồi tay ngai", 4 mái uốn đầu đao cong vút.
Kết cấu bộ khung bên trong đình có bốn hàng chân cột gỗ, sáu
bộ vì với tổng cộng 24 cột bằng gỗ tứ thiết. Các bộ vì có cấu trúc kiểu thức
"thượng rường cốn, hạ bảy". Chính giữa đại bái là một tiền sảnh hai tầng
liền kề, cổ diềm đón ánh sáng. Hệ thống cửa bức bàn chắc chắn với hàng câu đối
trên cột đá: “Thánh tích cơ đồ minh quốc sử/ Thần công hiển hách trù hương từ”
nhằm ca ngợi công lao của các vị Thành hoàng làng.
Đặc biệt, các đầu đao ở tiền sảnh đều được đắp nổi rồng phượng,
long lân uốn cong đuổi nhau thành đôi - rất ít khi xuất hiện trong tạo hình
trang trí góc mái đình. Mái đình lợp ngói vảy cá, hai đầu bờ nóc có đôi lân
cõng mây chầu, trên hai bờ dải có đôi kìm.
Các bức cốn được điêu khắc với nội dung phong phú, cởi mở
như rồng vờn nhau, rồng mẹ vui đùa cùng rồng con, rồng đuổi mây..., phản ánh
khao khát tự do và thể hiện sự suy yếu của vương quyền cuối thời Lê.
Trên các đầu bảy mái hiên được chạm khắc tứ long, tứ quý, các
con rồng được chạm với đuôi xoắn, bờm rậm, mặt dữ tợn, mang phong cách nghệ thuật
đặc trưng thời Nguyễn. Chính giữa hậu cung có bức cửa võng cổ nhiều tầng, trên
là bức hoành phi “Dực bảo trung hưng”.
Nghi môn đình Tri Chỉ.
Đại bái đình Tri Chỉ với tiền sảnh có hai tầng mái.
Hiện tại, đình Tri Chỉ còn lưu giữ được nhiều hiện vật có
giá trị từ thời Nguyễn như hoành phi, câu đối, hương án, cửa võng, ngai thờ,
bài vị, cây đèn gốm tráng men màu da đá, một số phù điêu hình rồng mang phong
cách nghệ thuật thời Mạc, 2 đĩa men ngọc và cuốn thần phả, sắc phong Thành
hoàng làng. Đạo sắc phong gần nhất là năm Duy Tân thứ 3 (năm 1909).
Lễ hội truyền thống làng Tri Chỉ diễn ra từ ngày mùng 1 đến
mùng 4 tháng Tư và từ mồng 9 đến mùng 10 tháng Tám (âm lịch), thu hút hút hàng
ngàn khách du lịch.
Tri Chỉ còn là quê hương của Ngô Nho (1756 - 1787), người đỗ
Tiến sĩ khoa Ất Tỵ, năm 1785, đời vua Lê Hiển Tông, làm quan đến chức Hàn lâm
viện Hiệu thảo; từng làm Phó sứ và vào Phú Xuân cùng Trần Công Xán đưa quốc
thư, xin lại đất Nghệ An từ quân Tây Sơn. Đến nay, vẫn còn nhà thờ họ Ngô tại
Tri Chỉ đã được xếp hạng Di tích lịch sử - văn hóa cấp thành phố năm 2004.
Với những giá trị di
sản to lớn, đình Tri Chỉ được xếp hạng Di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia
năm 1985.
Nguồn: Nhịp sống Hà Nội