Đinh Triều Quốc Mẫu (890 - 968) có tên gọi theo chính sử là Đàm Thị, tên húy theo dã sử là Đàm Thị Thiềm, là mẹ của Vua Đinh Tiên Hoàng trong lịch sử Việt Nam.
Bà là vợ quan thứ sử Hoan Châu Đinh Công Trứ dưới thời Dương
Đình Nghệ và Ngô Quyền trị vì. Khi chồng mất bà đưa con nhỏ (vua Đinh Bộ Lĩnh)
và đám gia nhân trở về quê hương sinh sống, sau này vua giành thắng lợi trong
việc đánh dẹp loạn 12 sứ quân để lên ngôi Hoàng đế, lập ra triều đại Nhà Đinh
và nhà nước Đại Cồ Việt trong lịch sử Việt Nam.
Bức tượng thân mẫu vua Đinh Tiên Hoàng. Ảnh: Đặng Hùng
Hoàng Thái hậu được lập đền thờ ở nhiều nơi thuộc Ninh Bình,
Nam Định, Thái Bình, Hà Nội, Bắc Ninh và được các triều vua sau này sắc phong
là Đinh Triều Quốc Mẫu.
Xuất thân
Đại Việt sử ký toàn thư có viết: "Vua Đinh Tiên Hoàng họ
Đinh, tên húy là Bộ Lĩnh, người ở động Hoa Lư, châu Đại Hoàng (nay là huyện Gia
Viễn, tỉnh Ninh Bình) là con trai Đinh Công Trứ, Thứ sử Hoan Châu. Dẹp yên các
sứ quân, tự lập làm đế... Vua còn nhỏ mồ côi cha, mẹ là họ Đàm đưa gia thuộc
vào ở cạnh đền Sơn Thần trong động". Đền Sơn Thần tức là đền Long Viên ở
xã Đề Cốc. Sách “Đại Nam nhất thống chí” ghi: “Long Viên: Ở xã Đề Cốc, nhà mẹ
Đinh Tiên Hoàng ở đấy, tức chỗ cũ của Đinh Tiên Hoàng lúc còn ẩn náu, nền nhà
cũ này vẫn còn nên gọi là “Long Viên”, trước mặt trong ra sông, có cầu Ngực, cầu
Phanh, bên tả vườn có gò bằng phẳng, tức là chỗ bày trận cờ lau”. Xã Đề Cốc
xưa, ngày nay chính là thôn Mỹ Hạ, xã Gia Thủy, huyện Nho Quan. Điều đó khẳng định
quê của bà Đàm Thị là thôn Mỹ Hạ, xã Gia Thủy (huyện Nho Quan, Ninh Bình).
Theo truyền thuyết địa phương, Bà Đàm Thị Thiềm sinh thành tại
Đào Vũ, Mỹ Đề, xã Đề Cốc, Tổng Đề Cốc, huyện Yên Hoa, phủ Thiên Quan, đạo Thanh
Bình, là con gái của Đàm Viên Ngoại.
Bà Hoàng thái hậu sinh ngày 15 tháng 8 năm Canh Tuất (890),
thuở nhỏ đã hát hay và giỏi cung kiếm, được quan thứ sử người châu Đại Hoàng là
Đinh Công Trứ khi đón về phủ Hoan châu. Ngày 15 tháng 2 năm Giáp Thân (22 tháng
3 năm 924), bà Đàm Thị Thiềm Nương sinh (Vua) Đinh Bộ Lĩnh.
Sau khi đức ông Đinh Công Trứ mất ở Hoan Châu, bà Đàm Thị mới
đưa (vua) Đinh Bộ Lĩnh về quê ngoại ở. Thấy Đinh Bộ Lĩnh “kéo nhau đi đánh trẻ
con thôn khác, đến đâu bọn trẻ đều sợ phục, hàng ngày rủ nhau đến phục dịch kiếm
củi thổi cơm.
Bà Hoàng Thái hậu thấy vậy mừng lắm, mổ lợn nhà cho chúng
ăn”, điều đó thể hiện bà Đàm Thị rất thương yêu, quan tâm và động viên (vua)
Đinh Bộ Lĩnh luyện tập quân sự ngay khi con trai còn nhỏ tuổi.
Với tài trí hơn người, (vua) Đinh Bộ Lĩnh con bà được tôn
làm Tù trưởng sách Đào Áo (nay thuộc các xã Gia Hưng, Gia Phú, Liên Sơn, huyện
Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình).
Căn cứ vào sử sách có thể thấy dòng họ Đàm bên ngoại Đinh Bộ
Lĩnh thời đó cũng là một thế lực lớn ở Hoa Lư. Thời trẻ vua Đinh đã từng bị chú
ruột Đinh Thúc Dự đuổi chạy qua cầu ở Đàm Gia Loan, cầu gãy, vua rơi xuống bùn,
thì bỗng thấy hai con rồng vàng hiện ra bảo vệ vua nên người chú sợ mà rút chạy…
Khi xưng đế, Đinh Bộ Lĩnh chọn một chỗ đất đẹp ở Đàm Thôn định
dựng đô. Nhưng vì đất hẹp, thế không hiểm nên đành đóng đô ở Hoa Lư. Các địa
danh Đàm Thôn hay Đàm Gia Loan nay ở gần làng Đàm Xá, tức vùng đất có nhiều người
họ Đàm ở xã Gia Tiến, Gia Viễn, Ninh Bình.
Giúp vua dẹp loạn
Thần tích Ngọc phả của miếu Lộc Thọ, xã Độc Lập, Hưng Hà,
Thái Bình chép rằng: Miếu thờ: “Quốc mẫu Thiềm Nương Hoàng Thái hậu”. Khi Đinh
Bộ Lĩnh dấy cờ khởi nghĩa ở Hoa Lư, thấy đã đủ mạnh, ông rời Hoa Lư đi dẹp loạn
các xứ quân, khi đi có đem theo thân mẫu Đàm Thị Thiềm cùng đi. Theo thần phả
thì bà Đàm Thị Thiềm vốn cũng có tài cung kiếm võ nghệ.
Sau khi về với sứ quân Trần Lãm ở Kỳ Bố Hải Khẩu, Đinh Bộ
Lĩnh đã cùng các tướng Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Lưu Cơ, Sát Công, Phạm Thành về
đóng đồn ở Doanh đầu (trang Thụy Thú – Lộc Thọ) nhằm ngăn chặn sứ quân của Phạm
Bạch Hổ, đang chiếm giữ đất Đằng Châu (nay ở Hưng Yên).
Sau này khi thế lực đã mạnh ông để thân mẫu ở lại Trang Thuỵ
Thú, tự mình dẫn quân đánh dẹp các sứ quân. Khi sắp xưng vương ông cho người về
Trang Thụy Thú đón mẹ, nhưng do ốm nặng bà không về Hoa Lư được và mất tại
Trang Thuỵ Thú ngày 10 tháng 10 năm Mậu Thìn (968).
Vua Đinh Tiên Hoàng đã lệnh cho táng mẹ ở doanh đồn (Thuỵ
Thú). Trên mặt huyệt dùng đá lấp lên sau dân làng xây miếu ở trên mặt mộ để thờ.
Vua lệnh miễn giảm tô thuế cho dân Thuỵ Thú và từ đó thôn Thuỵ Thú được triều
đình coi như một làng thuộc dân con quê cũ của mẹ vua. Trong miếu thờ Thái hậu
còn ghi: “Thánh hậu Đinh Miếu” và có nhiều câu đối ca ngợi công đức của bà.
Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, (vua) Đinh Bộ Lĩnh cùng với
con trai là Đinh Liễn có thời gian sang nương tựa cánh quân của Trần Lãm tại Bố
Hải Khẩu (Thái Bình), đối chiếu với đoạn sử trên, cho phép nhận định rằng, có
thể trong khoảng thời gian này, khi cùng con trai là Đinh Liễn đóng quân tại Bố
Hải Khẩu, Đinh Bộ Lĩnh đã đưa mẹ đi theo và để mẹ sống ở trang Thụy Thú cách Bố
Hải Khẩu 18 km.
Tôn vinh
Đinh Triều Quốc Mẫu Đàm Thị được thờ ở nhiều di tích như: đền
Long Viên, đền Thung Lá, Lăng Phát Tích, Cố đô Hoa Lư ở Ninh Bình; khu di tích
quốc gia đình Bườn - Miếu Trúc và lăng mộ các nhân vật lịch sử ở Nam Định; miếu
Lộc Thọ ở Thái Bình cùng với các từ đường Họ Đàm ở Vân Canh Hà Nội và Từ Sơn, Bắc
Ninh.
Cụm di tích lịch sử Đinh Triều Quốc Mẫu ở xã Độc Lập, huyện
Hưng Hà, tỉnh Thái Bình là một quần thể gồm: Hoàng Lăng, mộ địa, miếu, đình, đền,
chùa. Tương truyền, trong quá trình dẹp loạn 12 sứ quân, Đinh Bộ Lĩnh đã về
vùng Thụy Thú xưa lập căn cứ chống lại xứ quân Châu Đằng.
Cùng đi có thân mẫu Đàm Thị Thiềm Nương và các tướng: Đinh
Điền, Nguyễn Bặc, Lưu Công, Sát Công, Phạm Thành, Phạm Thọ, Lê Hoàn. Khi thế lực
đã mạnh, Đinh Bộ Lĩnh để thân mẫu ở lại trang Thụy Thú, rồi dẫn quân đi dẹp 12
sứ quân. Khi sắp xưng vương, ông cho người về trang Thụy Thú đón mẹ nhưng do ốm
nặng, bà không về kinh đô Hoa Lư được và mất tại trang Thụy Thú vào ngày 10/10
âm lịch năm 968.
Đinh Bộ Lĩnh đã lệnh cho quân sĩ an táng mẹ tại đây và cử bốn
vị tướng là Đinh Điền, Phạm Thành, Lưu Công, Sắt Công về trang Thụy Thú chiêu mộ
dân chúng bảo vệ Hoàng lăng, mộ địa. Sau khi 4 vị tướng qua đời, dân làng lập đền
và đình để thờ và tôn 4 vị làm thành hoàng làng, còn trên phần mộ của Hoàng
Thái Hậu Đàm Thị, dân làng xây miếu làm nơi hương khói. Tại đây còn lưu 10 đạo
sắc phong của ba đời vua Nguyễn: Thành Thái, Duy Tân, Khải Định. Các triều vua
đã ban cấp thần hiệu: Đinh Triều Quốc Mẫu nhân từ Thiềm Nương Hoàng thái hậu
trang huy dực bảo trung hưng thượng đẳng thần.
Di tích đình Bườn, miếu Trúc và mộ các nhân vật lịch sử liên
quan thuộc xã Mỹ Thắng (Mỹ Lộc, Nam Định) là Di tích lịch sử quốc gia. Đình Bườn
và những di tích có liên quan như: lăng mộ Đàm Hoàng Thái hậu, lăng mộ Tướng
quân Cao Mộc, miếu Trúc thờ Tướng quân Phùng Gia được xây dựng trên khu vực đồn
binh An Biện (Bườn) xưa của Đinh Bộ Lĩnh.
Con cháu dòng họ Đinh cùng với người dân làng Bườn – Nam Định đã xây dựng công trình khu lăng mộ Đinh Triều Quốc Mẫu. Nhằm tưởng nhớ công đức của Đàm Thái Hậu là mẹ ruột của nhà vua Đinh Tiên Hoàng. Khu lăng được xây dựng đúng dịp kỷ niệm 1085 năm ngày giỗ của bà.
Đây là một trong những căn cứ quan trọng trong việc tích trữ
lương thực, chiêu mộ binh sĩ, giúp Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất
đất nước. Về giá trị lịch sử, cùng với các đạo sắc phong thần, tại đình Bườn và
các di tích có liên quan còn có nhiều câu đối ca ngợi công đức và sự thờ tự đối
với Đàm Hoàng Thái hậu, Tướng quân Cao Mộc và Tướng quân Phùng Gia. Hằng năm, tại
di tích, nhân dân địa phương ba lần mở hội vào các ngày kỵ của Đàm Hoàng Thái hậu.
Tại di tích chùa Bái Đính (Ninh Bình), Hồ Đàm Thị là một
danh thắng nằm sát chân núi phía bắc của dãy núi Tràng An gắn với giai thoại
Thái hậu Đàm Thị đã từng mò cua, bắt tép ở đây để nuôi con, giữa hồ là di tích
đền Quốc trưởng công chúa thờ chị gái Vua Đinh Tiên Hoàng.
Từ đường Đàm Công thuộc thôn Kim Bảng, xã Hương Mạc, huyện Từ
Sơn, tỉnh Bắc Ninh là công trình kiến trúc cổ dân gian được xây dựng từ lâu, đã
qua nhiều lần tu bổ. Trong phả có chép “nhất cô giá Đinh triều” là nói về Đinh
Trều Quốc Mẫu, tức Hoàng Thái hậu Đàm Thị là danh nhân tiêu biểu nhất của dòng
họ.