Đình Trúc Động, xã Đồng Trúc, huyện Thạch Thất, Hà Nội thờ Giám Sát Đại Vương là con của Lạc Long Quân và Âu Cơ, tức Giám Sát là Tản Viên Hương Lang.
Nằm ở phía Nam huyện Thạch Thất, xã Đồng Trúc là nơi có nhiều
địa chỉ khảo cổ, hiện còn lưu giữ được nhiều di vật, nhiều dấu tích có ý nghĩa
rất quan trọng trong việc nghiên cứu tìm hiểu về lịch sử, văn hoá, khoa học,
tôn giáo và tín ngưỡng.
Riêng về đình chùa, Đồng Trúc là địa phương hiện còn bảo tồn
được khá nguyên vẹn ba ngôi đình là đình Trúc Động, đình Đồng Táng và đình Đồng
Kho, trong đó, nổi tiếng hơn cả là đình làng Trúc Động.
Trên thực địa từ Đình qua bên kia Sông Tích là Xuân Ca Cung ở
Liệp Tuyết thờ Thánh Tản và bên cạnh là Đình Liệp Mai thờ Tam Vị Thủy Thần tức
ba người con là Tam Công Long Vương Bát Hải Động Đình.
Di tích lịch sử – văn hóa đình Trúc Động
Truyền rằng vị Thành hoàng của làng thờ ở đình Trúc Động tên
là Giám Sát, vốn là con của Lạc Long Quân và Âu Cơ. Năm 40, Hai Bà Trưng phất cờ
khởi nghĩa ở Hát Môn. Trong một lần cầm quân đánh đuổi giặc Tô Định xâm lược, Nhị
vua Hai Bà Trưng nghỉ đêm ở làng Trúc Động. Đêm đó, Bà Trưng chiêm bao thấy một
cụ già dáng người cao lớn từ ngoài đi vào doanh trại xưng tên là Giám Sát con
vua Lạc Long Quân làm thần ở làng Trúc Động hứa phù hộ Hai Bà đánh tan giặc xâm
lược.
Hôm sau, Hai Bà mang quân ra trận tiền đánh tan quân Tô Định,
thu non sông về một mối, khôi phục nghiệp xưa của các vua Hùng. Nghĩ tới công
âm phù của vị thần làng Trúc Động, Hai Bà sức dân bản thôn lập miếu thờ phong vị
thần Giám Sát là Thượng đẳng thần và sau này là Thành Hoàng thờ ở đình làng
Trúc Động.
Đình Trúc Động hiện còn lưu giữ được 33 đạo sắc phong của
các triều đại phong kiến Việt Nam, cổ nhất là đạo sắc phong niên đại Đức Long
năm thứ 3 (1632), đạo sắc phong cuối cùng thuộc niên hiệu Khải Định thứ 9
(1924). Tại đình cũng còn lưu giữ được 4 bản ngọc phả, trong đó, có bản “Trúc Động
xã sự tích” một loại văn bản quý hiếm xét ở góc độ lịch sử thành văn làng xã Việt
Nam.
Các bản ngọc phả đó đã góp thêm những căn cứ giúp cho việc
nghiên cứu để khẳng định quê quán của Hai Bà Trưng chính là ở Hạ Lôi (Hạ Bằng,
Thạch Thất) và cuộc khởi nghĩa của Hai Bà đã diễn ra trên một địa bàn rộng lớn
gồm nhiều tỉnh thành hiện nay Hà Tây (cũ), Hà Nội, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh… Riêng
trên địa bàn Hà Tây (cũ) hiện còn rất nhiều địa danh ở Thạch Thất, Quốc Oai,
Phúc Thọ. ghi dấu chiến công giữ nước của Hai Bà.
Được coi là ngôi đình cổ nhất huyện Thạch Thất còn giữ được
cho đến nay, trải qua những biến thiên của lịch sử, đình đã nhiều lần được tu sửa
và kiểu dáng kiến trúc đình Trúc Động hiện nay mang đậm dấu ấn của kiến trúc
đình chùa Việt Nam thế kỷ XVI-XVII. Đình Trúc Động thuộc loại hình kiến trúc
nghệ thuật tôn giáo có quy mô bề thế, cửa đình ngoảnh hướng Nam, phía trước là
một ao sen rộng khoảng một mẫu Bắc Bộ. Cạnh đó là một giếng tròn, thành xây đá
ong tường cao 0,7m, đường kính 2,5m. Diện tích khuôn viên đình trên 3 sào Bắc Bộ,
xây tường đá ong bao quanh, sân đình bày đặt hai tượng voi đá hướng chầu vào
nhau là những tác phẩm nghệ thuật điêu khắc thời Nguyễn. Công trình kiến trúc
chính gồm ngôi nhà Tiền Tế và Đại Đình.
Nhà Tiền Tế làm kiểu chồng diêm 8 mái lá đao cong đầu rồng.
Những hàng cột gỗ tròn đặt trên chân tảng đá vuông. Kết cấu những bộ vì kiểu thức
chồng rường xây dựng vào thế kỷ XIX. Toà Đại đình là ngôi nhà dàn hàng ngang 5
gian hình chữ nhật, làm vào thế kỷ XVIII, mái lợp ngói mũi hài, trên có hoa văn
hình vân soắn. Bên trong là những lớp kiến trúc cổ bộ vì rường cốn đặt trên câu
đầu cột cái, cột quân chịu lực to khoẻ, đấu vuông trên đỉnh phía dưới tảng kê bằng
đá xanh.
Giá trị nổi bật là nghệ thuật điêu khắc và trang trí đã được
các nghệ nhân xưa thể hiện trên các kiến trúc gỗ tập trung ở các bộ nhà vì Tiền
Tế và Đại Đình. Đề tài chủ yếu là rồng, phượng, các loại vật thiêng, hoa lá…
mang tính truyền thống cao, đậm nét phong cách nghệ thuật cuối Lê, đầu Nguyễn.
Đặc biệt là các tác phẩm hình rồng ở đầu bẩy, đầu dư của nhà Đại Đình, nét chạm
không rườm rà, mạch lạc dứt khoát, chắc, thoáng và khoẻ mang phong cách nghệ
thuật điêu khắc cuối thế kỷ XVIII.
Đình Trúc Động còn một bia đá thời Lê, nội dung ghi chép điều
lệ ruộng đất, chức sắc, thể lệ vui chơi trong lễ hội…Ở Đại đình có đôi hạc gỗ
thờ cao tới 2,62m sơn son thiếp vàng đứng trên lưng rùa đặt trên cung thờ là
tác phẩm điêu khắc mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XIX.
Kiến trúc đình Trúc Động phản ánh một cách khá tiêu biểu lịch
sử nghệ thuật kiến trúc đinh Việt Nam. Đình Trúc Động là nơi thường xuyên liếp
đón du khách thập phương, các nhà khoa học, các đoàn thực tập về nghiên cứu,
tìm hiểu lịch sử, văn hoá làng xã, kiến trúc, tôn giáo… Ngày 27/3/1991, Đình đã
được xếp hạng di tich lịch sử –Văn hóa cấp Quốc gia.
Đình Trúc Động toạ lạc trên khu đất có cảnh quan thiên nhiên
ngoạn mục, là di tích có tiếng ở trong vùng. Hàng năm, làng tổ chức lễ hội vào
hai kỳ. Mùa xuân ngày 12 tháng 2 âm lịch, mùa thu ngày 13 tháng 8 âm lịch, dân
làng và khách thập phương về chẩy hội Trúc khá đông vui, họ xem tế lễ, diễn xướng
và tham gia những trò chơi thể thao giải trí.