Trung Kính Thượng trước là ngoại ô, nay thuộc quận Cầu Giấy. Làng có ngôi đình cổ, được công nhận Di tích lịch sử năm 2008, có thể coi là di vật chứng kiến quá trình dựng nước và giữ nước từ đời Hùng Vương thứ 18 đến sau này. Đình thờ hai vị Thánh hiền, thần phả còn lưu lại cho thấy khá rõ công tích.
Thánh hoàng làng là Quốc Vương đại thần - Hùng Công, tên thật
là Hùng Nộn. Đời vua Hùng thứ 18 Duệ Vương lên ngôi, đóng đô ở bên sông Bạch Hạc
Việt Trì, đặt tên nước là Văn Lang, kinh đô là thành Phong Châu. Duệ Vương tài
cả chí cao, gồm đủ thông minh thánh triết, trong nước sửa sang văn đức, bên
ngoài phòng bị biên cương.
Thuở ấy chủ trưởng Ô Châu là Hùng Độ lấy vợ là Mặc Thị Viên,
người khiêm cung từ ái, ngày 10 tháng 2 năm Đinh Mùi sinh con trai mặt vuông
tai lớn, mắt phượng, lòng bàn tay có chữ "Vương", đầu ngón chân cái
có 7 sợi lông dài hơn một tấc.
Vào lúc Ngài đang sinh có ba tiếng sấm lớn, gió mưa bỗng nổi
lên ầm đến một giờ mới tạnh, hào quang rực rỡ, trong buồng hương thơm ngào ngạt.
Sau khi sinh được 100 ngày, đặt tên Nộn. Khi Quán chủ băng, Hùng Nộn kế tập làm
chủ trưởng Ô Châu, còn gọi "Nộn Công", do đức chính có thừa mà được
anh hùng bốn biển quy phục.
Cuối thời Hùng, thế nước sắp mất, Duệ vương sinh 20 hoàng tử
đều lần lượt quy tiên, chỉ còn hai con gái. Công chúa Tiên Dung gả cho Chử Đồng
Tử, nàng thứ là Mỵ Nương Ngọc Hoa dáng vẻ chim sa cá lặn. Vương đành kén rể hiền
để nhường ngôi. Thánh Tản Viên là người quê ở động Lăng Sương, huyện Thanh
Châu, phủ Gia Hưng xứ Sơn Tây và Long Quân hồ Động Đình cùng đến thành xin thi
tài.
Vua ngự xe đến xem thấy hai người đều thuộc loại tài lạ thuật
kỳ tương đương nhau, phán bảo: "Người nào mang sính lễ đến trước trẫm sẽ gả
Mỵ Nương cho". Tản Viên đến trước nên được thành hôn cùng Mỵ Nương.
Thủy Tinh chậm bước, không được gả, trong lòng sinh hận thù
thường hay dâng nước đánh nhau với Sơn Thánh Tản Viên để báo thù nhưng không thắng
được. Bấy giờ Thục Vương (tức chúa bộ Ai Lao cũng là dòng dõi họ Hùng) nghe
tin, bèn đem 10 vạn hùng binh đến xâm phạm Nam Giao.
Biên cương cấp báo, Nộn Công được sai đem quân tuần giữ miền
biên cương. Ngày 12 tháng 6, Ngài tiến quân tới vùng Kính Chủ huyện Từ Liêm,
nhân dân làm lễ đón mừng. Thấy vùng đất ấy thông được với cả ba xứ Đoài, Bắc và
Nam, mà Từ Liêm là Nội trung độ, lại thấy địa hình tiện lợi, đường thủy thông
đi các nơi, Ngài bèn truyền lệnh cho dân và quân lính xây dựng doanh trại đồn
binh để phòng chống quân Thục cả ba mặt.
Đất Kính Chủ có nhà giàu, chồng là Nguyễn Đức Ngôn, vợ là
Trương Vị Quốc sinh được một người con gái nhan sắc xinh đẹp. Chủ trưởng Ô Châu
ngỏ lời, được thuận lòng gả, bèn sắm sửa sính lễ đón nàng về sở quan tại Kính
Chủ, lập làm đệ nhị phu nhân và lưu quân đóng đồn ở đấy. Được gần một năm, quân
dân, già trẻ trong làng đều rất vui, xóm ấp đều phong lưu thịnh vượng.
Quân Thục tiến đến Mộc Châu và Châu Quỳnh Nhai dựng đồn lũy
lớn, trồng cột cờ, đặt trống lớn, uy hiếp các đạo Sơn Nam, Nam Chân, Hải Dương,
Kinh Bắc. Sơn Thánh Tản Viên bèn xin được đi giết giặc, đạo quân chính tiến thẳng
tới Quỳnh Nhai, Mộc Châu đánh vào trại đồn chính, quân Thục phải tan, bắt sống
nhiều quân tướng.
Một đạo khác, trong đó có 142 người ở Kính Chủ, do chủ trưởng
Nộn Công chỉ huy tiến đến Lạng Sơn, chia làm 3 ngả đánh một trận lớn, quân Thục
thua chạy. Các đạo quân chinh phạt vùng khác cũng đều quét sạch địch, dâng biểu
tâu thắng trận. Vua nghe rất mừng, ngay lập tức khao thưởng, thăng chức tướng
sĩ ba quân, công thần lớn nhỏ. Nộn Công được phong Bảo Quốc hầu, ngụ tại Kính
Chủ, cho ở đất ấy làm "Hộ nhi Hương", thưởng thêm 100 nén vàng. Từ đấy
vua tôi hợp sức, thiên hạ thái bình.
Được vài năm chúa Thục vẫn tâm thù bèn cầu viện các nước
láng giềng đem binh cùng tiến vào các châu biên viễn. Nộn Công cùng các tướng
nhận lệnh đem quân chặn, trận đầu vào đồn nguyên soái địch đã thắng to.
Sơn Thánh dùng mẹo lừa quân Thục, đánh một trận quyết chiến,
thu được ấn, quân Thục thua to bỏ chạy về bản quốc. Ngày chiến thắng (12 tháng
10) Nộn Công đem quân trở về đến địa phận Châu Hoan, bỗng nhiên không ốm tự
hóa.
Duệ Vương vô cùng thương tiếc, khen phong mỹ tự Quốc Vương Đại
Thần, ban cho đất Kính Chủ mũ áo để phụng thờ. Từ đó đệ nhị phu nhân cắt tóc
quy y đạo Phật tại chùa làng ở Nam Sơn, về sau hóa được dân phụng thờ cùng
Ngài. Từ đây nơi thờ Ngài rực rỡ huy hoàng, đèn hương nghi ngút, cầu đảo tỏ rõ
linh ứng.
Thời Lê Đại Hành cự Tống, vua Lê Đại Hành đã đến đền thờ ở
Kính Chủ làm lễ cầu âm phù giúp nước đánh giặc thành công. Ngài hiển ứng ngầm
theo mà thắng, được Đại hành Hoàng Đế khen tặng mỹ tự "Uy Dũng Đại Thần".
Khởi nghĩa Lam Sơn, Lê Lợi sai Nguyễn Trãi đến đền thờ Ngài
mật cầu âm phù giúp nước. Ban đêm, Nguyễn Trãi nằm mộng thấy binh mã vào xin
cùng đánh giặc, tỉnh dậy biết đã ứng nghiệm. Khi dẹp được giặc, Lê Lợi phong mỹ
tự "Linh Ứng Hùng Lược".
Trải các đời sau, Ngài đều tỏ rõ linh nghiệm giúp nước, an
dân, được truy phong mỹ tự. Việc thờ cúng Thần được sắp xếp như sau: Sinh 14
tháng 2, lễ dùng trâu, bò, lợn đen, xôi rượu, ca hát, đánh cờ đấu vật.
Ngày hóa 12 tháng 10, lễ dùng trâu, bò, bánh dày, xôi cơm rượu.
10 tháng 2 chính lễ khánh hạ Đại Vương, cỗ chay 3 mâm, thịt lợn, xôi rượu, cơm,
ca hát. 12 tháng 3 chính lễ khai sắc khánh hạ, 5 mâm xôi gà, thịt lợn đen, rượu
cơm ca hát. 2 tháng 6 chính lễ hội dân khánh hạ, thịt lợn đen, xôi rượu, ca hát
một ngày.
Người thứ hai được phối thờ trong đình là Trịnh Thị Ngọc
Nghiêu. Thần tích cho biết bà là chính phu nhân quan trọng thần triều hậu Lê là
Đô Đốc Đồng Tri, đêm thanh vắng thường mơ thấy Thiên Đế ban tứ cho dân thôn Thượng
xã Kính Chủ huyện Từ Liêm làm dân thế nghiệp.
Nhân đó bèn hứa cấp cho bản thôn 100 quan tiền cổ, 5 mẫu ruộng
ở các xứ đồng. Hiện tại còn minh ước ở trong bia đá làm hậu thần của bản thôn…
Ngày 3 tháng 6 năm sau bản thôn có lệ làm lễ hạ điền cầu phúc ca hát thờ thần.
Hôm ấy qua hậu thần đến miếu làm lễ, vừa đến miếu sở không bệnh
bỗng mất. Từ đấy về sau miếu này rất linh thiêng. Bản thôn nêu rõ sự việc đề đạt
lên vua, kính vâng được phong tặng là Thiệu Nghĩa Hoằng ân Đại Vương.
Các triều kế tiếp đều có gia phong mỹ tự, hằng năm vào tháng
2 là kỳ lễ nhập tịch kỳ phúc, vâng nghênh rước cùng phối thờ với bài vị Đức Linh
thần Đương Cảnh Thành Hoàng. Thiết nghĩ năm tháng trôi đi lòng người khó định,
con cháu đời sau chớ làm trái với cái chí của tổ tiên để hưởng sự tốt lành, cầu
cho dân khang vật thịnh. Nay làm phả ghi lại sự việc.
Theo dân địa phương và các vùng lân cận thì có tới 18 nơi thờ
Hùng Nộn, đình Trung Kính Thượng là nơi thờ chính.
Các cụ xưa lại kể đình có từ thời Hùng Vương. Khi Ngài mới
hóa, dân đặt tại bờ sông, sau chuyển về vị trí hiện nay, là nơi đầu tiên Ngài đặt
doanh trại. Từ nhà mái lá đơn sơ, dân xây thành ngôi miếu nhỏ nguyên liệu chủ yếu
là gạch vồ, hiện tại hậu cung vẫn còn có gạch này.
Miếu còn tồn tại khá lâu sau được dân địa phương xây thành
ngôi đình lớn, rất tiếc năm 1946 do tiêu thổ kháng chiến phá đi trung đường và
nhà đại bái. Năm 1996 dân góp hơn 100 triệu đồng trùng tu, làm lại trung đường
và nhà đại bái như hiện nay.
Câu đối, hoành phi, đồ tế khí và hai cột cờ do dân địa
phương và các nhà hảo tâm cung tiến. Hiện đình còn giữ được khán thờ cổ, bát
hương cổ và một chuông cao 80cm, đường kính 30cm có từ thời Lê cùng 14 đạo sắc
phong của các triều vua.
Như vậy phía Tây nam kinh thành cũ có ngôi đình cổ Trung
Kính Thượng, niềm tự hào của nhân dân hai làng Trung Kính. Ghi dấu ấn một thời
dựng nước và giữ nước của nhân dân ta, đây là một điểm nhấn tâm linh thật quý
giá.