Đình Trung Tự xây khoảng cuối thế kỷ 17, hiện ở ngõ 198 Xã Đàn, phường Phương Liên, quận Đống Đa, Hà Nội. Đình thờ phụng Cao Sơn Đại vương, Huệ Minh công chúa và Nguyễn Hy Quang Đại vương.
Làng Trung Tự vốn thuộc phường Đông Tác, huyện Thọ Xương, nằm
chính giữa phía nam kinh đô Thăng Long thời Lê. Đình làng tuy nhỏ nhưng ở địa
thế tốt: cổng nghi môn giáp đê La Thành, mé phải có chùa Phúc Long và đàn Xã Tắc,
mé trái là đền Cao Sơn Kim Liên, lưng dựa hồ Khang rộng lớn (trước khi bị đường
QL1A chia ra thành hồ Ba Mẫu và Bảy Mẫu). Từ nghi môn vào đình xưa kia là con
đường làng đi giữa các ao vườn.
Tương truyền thần Cao Sơn là Lạc tướng Vũ Lâm, con của Lạc
Long Quân và Âu Cơ. Đền thờ chính của thần ở huyện Phụng Hoá, nay là Nho Quan,
tỉnh Ninh Bình. Theo văn bia trong đình Kim Liên bên cạnh do Đông các đại học
sĩ kiêm Quốc tử giám Tế tửu Lê Tung soạn năm 1510, thần đã giúp Lê Tương Dực dẹp
loạn, nên năm 1509 vua cho xây dựng một đền thờ to đẹp hơn tại phường Kim Hoa ở
kinh thành, trấn phía nam Thăng Long.
Đình Trung Tự khởi đầu từ một ngôi đền nhỏ thờ thần Cao Sơn
và Huệ Minh công chúa, sau mở rộng thành đình, có sắc phong phúc thần là Đại
vương Nguyễn Hy Quang (1634 – 1692). Đình đã được tu sửa nhiều lần; lần mới nhất
cách đây vài năm. Khuôn viên đình bị thu hẹp sau những biến cố lịch sử, cổng
đình nay mở về hướng tây giáp ngõ 198 Xã Đàn, phải dựng nhà bia và xây Văn Chỉ
ngay trong sân.
Trải qua bao cuộc dâu bể, giáp đình Trung Tự thì nhà Văn Chỉ
cũ đã bị lấy mất, giếng Ngọc cũng chỉ mới được xây lại gần đây. Nhưng trong
đình vẫn giữ được nhiều kỷ vật, kể cả 2 tấm bia quý và 10 câu đối cổ. Sau cổng
đình có hai nhà bia nhỏ. Độc đáo nhất là bia hộp “Đông Tác phường Trung Tự thôn
địa giới kiệt” (Mốc địa giới thôn Trung Tự, phường Đông Tác), trước đặt ở Văn
Chỉ. Lời mở đầu văn bia do Tư nghiệp Quốc tử giám Hoàng giáp Nguyễn Trù
(1668—1738) soạn năm 1733 (ngày 2 tháng 6 Quý Sửu, niên hiệu Long Đức thứ 2),
đúng 60 năm sau khi dân làng Trung Tự kiện để đòi lại đất đai bị quân doanh chiếm.
Sau bình phong là một cây thị khoảng 400 tuổi mà vẫn đứng sừng
sững, cành lá xum xuê che mát nhà bia. Trong hốc cây đã từng cất giấu tài liệu
cách mạng bí mật. Hàng năm vào ngày 20 tháng 8 âm lịch, dân hiếu học trong làng
làm lễ tế các bậc tiên hiền dưới bóng cổ thụ này. Theo lời cụ thủ từ là cựu nhà
giáo Nguyễn Trà thì thị thuộc loại “thất tuyệt” tức có 7 điều quý: cây thọ, tán
rộng, chịu hạn, không có tổ chim, gỗ làm ván in, quả thơm để cúng, vỏ làm thuốc
chữa bệnh.
Sân đình Trung Tự nay bị thu hẹp nhưng vẫn đủ chỗ làm bàn cờ
người, thường chơi trong những ngày hội làng vào dịp rằm tháng ba âm lịch hàng
năm. Trước sân có một miếu nhỏ, cửa đề chữ Hán “Ngưỡng chỉ”, trong thờ hai pho
tượng Đức Ông Văn Võ đối diện nhau. Hai bên miếu là khu phụ và nhà bia nhỏ thứ
ba. Quanh sân có các bức tường gắn nhiều bia ghi công đức.
Đại đình 5 gian kết cấu theo hình chuôi vồ với hậu cung 3
gian và 1 gian nối mái. Ở chính điện có một bộ long ngai kiểu thời nhà Mạc với
hai đầu rồng quay vào trong là thứ rất hiếm. Lại có những đồ quý khác như bức
chạm quần long tụ hội và chiếc mõ gỗ to hình con cá, dài 1,93m với kích thước
khoang bụng 1,1m.
Gian thứ hai chính điện có bộ cửa giữa rộng 4 cánh, phía
trên là bức hoành phi cổ nữa, đề chữ Hán “Chiêu điện thiên cổ”. Cửa ngách bên trái
treo hoành phi “Trang nghiêm”, cửa bên phải treo hoành phi “Tĩnh túc”.
Trong đình có đôi câu đối chữ Hán:
“Khang thuỷ La thành vượng khí bán phần Long Đỗ thắng / Âu phong Á vũ sùng từ trường đối Tản Viên phong”.
Tạm dịch:
Hồ Khang (Thuỷ), thành (Đại) La, khí vượng bằng nửa phần cảnh đẹp Long Đỗ / Gió Âu, mưa Á, đền thiêng sánh lâu dài đỉnh núi Tản Viên
Ở giữa đặt ngai lớn thờ Đức Ông, 2 tay ngai chạm rồng tinh xảo,
sau lưng có con rồng bay ra, hai bên gồm 6 trụ đứng, đế hình chân quỳ, 4 góc chạm
hình đầu cá chép… Trên ngai xếp bài vị sơn son thếp vàng, đỉnh chạm lưỡng long
triều nguyệt, xung quanh chạm trổ mây cuộn có hai đầu rồng vươn lên. Bên trái
gian thứ tư còn xây bệ thờ, trên để long án bằng gỗ sơn son thếp vàng và có 6
trụ tay ngai hình rồng.
Tiền đường rộng 5 gian. Gian giữa (trung đình) treo bức
hoành phi chạm rồng chầu mặt nguyệt và 4 câu đối gắn trên 4 cột sơn son thếp
vàng, tiếp đến là bức hoành phi cổ thứ hai và án thư gỗ từ thế kỷ 17 chạm hình
hổ phù tứ linh. Các gian hai bên tiền đường hiện nay đặt chuông, trống, đôi ngựa
gỗ, các kiệu, tay ngai và đòn khiêng bát cống.
Đình Trung Tự đã được xếp hạng Di tích kiến trúc nghệ thuật
quốc gia vào ngày 23-6-1992.