Đình Viên Châu có từ thế kỷ XVII tại xã Cổ Đô, huyện Ba Vì, Thành phố Hà Nội. Đình thờ phụng Nhị vị thành hoàng là Thông Hà Đại vương và Thuỷ Giang Linh ứng Đại vương, cháu ngoại Hùng vương thứ 17.
Xã Cổ Đô vốn tên là An Đô, sau đổi là An Bang, trước thuộc
huyện Tiên Phong, phủ Quảng Oai, trấn Sơn Tây, nay thuộc huyện Ba Vì, thành phố
Hà Nội. Viên Châu là một ngôi làng của xã này, trong đình có thờ Nhị vị thành
hoàng Thông Hà và Thuỷ Giang Linh ứng Đại vương, tương truyền là con của công
chúa Thụy Hoa và cháu ngoại của vua Hùng thứ 17.
Cho đến nay, hàng năm vào 2 ngày 6/1 và 6/10 âm lịch dân
làng lại tổ chức Lễ tưởng niệm Nhị vị thành hoàng Đại vương. Ngày 21-11-1985,
Bộ Văn hóa đã công nhận đình Viên Châu là Di tích lịch sử - văn hóa quốc gia.
Đình Viên Châu.
Từ xưa dân Cổ Đô vốn có nghề thủ công. Tương truyền, công
chúa Thụy Hoa đã từ thành Phong Châu vượt sông Hồng sang đây dạy dân trồng dâu,
nuôi tằm và dệt lụa. Bà về sau được phong là Mục Phật công chúa và thờ ở am bên
cạnh đình. Lụa Cổ Đô từng là sản vật tiến vua và đã đi vào câu ca dao lan truyền
khắp nơi:
Lụa này thật lụa Cổ Đô / Chính tông lụa cống các cô ưa dùng.
Không những thế, làng Cổ Đô còn nổi tiếng vì có truyền thống
văn hóa lâu đời:
Cổ Đô trên miếu dưới chùa
Trong làng lắm kẻ nhà Nho có tài.
Thời Lê, từ Cẩm Thủy, trấn Thanh Hoa, đã phiêu dạt tới đây một
gia đình nghèo, chồng chăn vịt, mất sớm; vợ làm nông tang, sinh được một con
trai. Đó là Nguyễn Sư Mạnh (1458-1544) thi đỗ tiến sĩ khoa Giáp Thìn niên hiệu
Hồng Đức thứ 15 (1484), về sau có nhiều công lao, được vua ban quốc tính gọi là
Lê Lan Hinh, làm quan tới chức thượng thư bộ Lễ, tước Sùng Tín hầu.
Cổ Đô còn là nơi sinh thượng thư Nguyễn Bá Lân (1700—1786),
18 tuổi đỗ giải nguyên, 2 năm sau đỗ tiến sĩ, làm tới thượng thư ở cả 6 bộ. Ông
là tác giả của bài “Ngã ba Hạc phú” có ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển của
văn học chữ Nôm.
Tổ tiên ông vốn quê ở xã Hoài Bão, huyện Tiên Du, phủ Từ
Sơn, xứ Kinh Bắc. Đặc biệt ngày nay trong xã có tới gần hai chục họa sĩ và nghệ
nhân vẽ được đào tạo bài bản. Các tác phẩm tiêu biểu của họ trưng bày tại Bảo
tàng Mỹ thuật Cổ Đô.
Kiến trúc
Đình Viên Châu được xây dựng từ thế kỷ XVII, kết cấu theo kiểu
chữ “Nhị” rất cổ, không có hậu cung riêng mà để khám thờ trên gác tại
gian giữa. Toà đại đình rộng 3 gian 2 chái, bốn góc mái có đầu đao cong, bờ
nóc và bờ dải trang trí bằng hàng gạch hoa chanh với các đầu rồng, lân bằng đất
nung sống động.
Bốn bộ vì chính của đại đình được làm theo kiểu thượng chồng
rường giá chiêng, hạ kẻ bẩy hiên, phía dưới có 6 hàng chân. Nửa sau gian giữa đại
đình để thông thoáng. Tiếc rằng hệ thống sàn gỗ đã bị hư hỏng nay không còn nữa.
Phía trước toà đại đình là một khoảng hẹp làm giếng trời để
lấy sáng và cách ly với 5 gian nhà tiền tế xây tường hồi bít đốc đơn giản. Các
bộ vì kiểu chồng rường giá chiêng, hạ bẩy dựa trên 4 hàng chân.
Tại khu vực sân tiền tế ta thấy có cổng nghi môn với trụ biểu
mới xây lại, dấu vết của hai dãy tả hữu mạc cũng đã không còn sau những biến động
lịch sử. Trước cổng là con đường làng và hồ sen hình tứ giác ở phía nam. Bên tả
khu đình có một sân gạch rất rộng kéo dài đến tận thềm của ngôi miếu nhỏ, phía
sau đình và miếu là vườn cây ăn quả.
Di sản lịch sử
Trong ngôi đình hiện còn lưu giữ được 1 bức hoành phi, 2 câu
đối và 5 đạo sắc phong. Trên bộ khung toà đại đình là những mảng chạm khắc, những
bức cốn… có phong cách tạo tác của thời Lê Trung hưng.
Các đề tài chủ yếu gồm có tứ linh (long, ly, quy, phượng) và
các cảnh sinh hoạt của con người như đấu vật, táng mả hàm rồng… Ngoài ra còn có
các khối tượng tròn gắn trên các đầu dư, tạc hình voi, ngựa…
Tại mái trần của gian giữa tòa đại đình còn có tấm
màn giếng là một tác phẩm tranh vẽ trên gỗ rất đẹp được làm lại vào khoảng cuối
thế kỷ XX. Ngoài ra, bộ khung gỗ tại nhà tiền tế được trang trí với các đề tài
hoa văn long, ly, hoa lá cách điệu, vân xoắn mây lửa… tạo tác theo phong cách đặc
trưng của nghệ thuật chạm khắc thế kỷ XIX.
Nguồn: 360.hncity