Đình làng Việt Yên, vườn Mơ và 4 miếu ở 4 góc làng (miếu Cả Đoài, miếu Tư Chính, miếu Tư Nhất và miếu Thượng Đông) là những di tích thờ 4 anh em họ Trịnh gồm: Minh công, Khang công, Nguyên công, Lương công có công giúp Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp loạn 12 sứ quân ở thế kỷ X.
4 anh em danh tướng họ Trịnh là con của ông Trịnh Thông,
nguyên quán ở trang Tranh Vanh, huyện Đường An, Châu Hồng (Bình Giang, Hải
Dương) và 2 bà vợ là Hoàng Thị Ngoạn (người Hải Dương, mẹ của Minh công) và bà
Trần Thị Hạnh (người Thái Bình, là mẹ của 3 người em còn lại).
Thời loạn 12 sứ quân, Ngô Xương Xí sai gia thần đến dụ, ba
ông không chịu. Sứ quân tức giận mang binh mã đến đánh, ông và ba em trai bèn
truyền binh sĩ thiết lập đồn doanh ở bốn nơi. Minh công đóng ở xứ Cửa Chùa,
Lương công đóng ở xứ Cửa Triệu, Nguyên công đóng ở xứ Kiều Kinh, Khang công
đóng ở xứ Bến Bến, thường cùng với Ngô sứ quân cự chiến. Ngô sứ quân đều thua.
Nghe danh của bốn ông, vua Đinh Bộ Lĩnh sai tướng Đinh Điền
là đại thần mang quân đến mời và phong cho Minh công làm quản giới nguyên soái
tướng quân, Lương công làm thống suất tướng quân, Nguyên công làm giám sát tướng
quân, Khang công làm thượng dũng sứ.
Bốn ông phụng mệnh dẫn quân đến Châu Phong đánh sứ quân Kiều
Công Hãn. Bốn ông thắng được Công Hãn, quét sạch tàn quân.
Đình làng Việt Yên, vườn Mơ và 4 miếu ở 4 góc làng (miếu Cả
Đoài, miếu Tư Chính, miếu Tư Nhất và miếu Thượng Đông) là những di tích thờ 4
anh em họ Trịnh gồm: Minh công, Khang công, Nguyên công, Lương công có công
giúp Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp loạn 12 sứ quân ở thế kỷ X. 4 góc làng có tên là xứ
Cửa Chùa (tây nam làng, nay là miếu Tư Chính), xứ Bến Bến (tây bắc làng nay là
miếu Tư Nhất), xứ Cửa Triệu (đông bắc làng nay là miếu Thượng Đông), xứ Kiều
Kinh (tức là Cầu Kênh, đông nam làng nay là miếu Cả Đoài).
Vườn Mơ xưa (bao gồm khu vực đình làng và vườn Mơ ngày nay)
là đại bản doanh của 4 anh em họ Trịnh, và là nơi yên nghỉ của thân phụ Trịnh
Thông và bà vợ kế là Trần Thị Hạnh. Khi còn đang xây dựng lực lượng chống Ngô
Xương Xí và sau này theo Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân, 4 anh em họ Trịnh đã
xây dựng ở giữa làng, canh vườn Mơ một hội đồng cung. Họ thường xuyên đến đây
bàn bạc công việc, chỉ huy 4 đồn phòng thủ ở 4 góc làng.
Miếu Tư Chính thờ Trịnh Minh công, đóng ở xứ Cửa Chùa, được
vua Đinh Tiên Hoàng phong làm quản giới nguyên soái tướng quân.
Miếu Thượng Đông thờ Trịnh Lương công đóng ở xứ Cửa Triệu, được
vua Đinh Tiên Hoàng phong làm thống suất tướng quân
Miếu Cả Đoài thờ Trịnh Nguyên công đóng ở xứ Kiều Kinh, được
vua Đinh Tiên Hoàng phong làm giám sát tướng quân
Miếu Tư Nhất thờ Trịnh Khang công đóng ở xứ Bến Bến, được
vua Đinh Tiên Hoàng phong làm thượng dũng sứ.
Đình Việt Yên được dựng lại sau năm 1954 quy mô nhỏ bé đang xuống cấp nghiêm trọng.
"Theo ngọc phả lưu trữ tại Viện Hán Nôm, miếu làng An
Việt, trang An Việt, đạo Sơn Nam nay là đình làng Việt Yên, xã Điệp Nông, huyện
Hưng Hà thờ “Thiên Bồng chủ tể Đại vương” thời Lý Cao Tông (1176 - 1210). Mặc
dù được tấn phong “Thiên Bồng” nhưng “thiên thần” này lại là “nhân thần” có thật,
huân công lớn dẹp loạn, chặn giặc Chiêm Thành. Ông quê châu Thu Vật, đạo Tuyên
Quang được vua Lý Cao Tông phong là “Quan chủ tể đạo Sơn Nam” và sắc cho dân
làng An Việt phụng thờ.
Khi ông mất, dân làng An Việt tạc thần hiệu “Thiên Bồng
Chiêu Dương tướng quân chủ tể Đại vương” thờ trong đình làng. Đình Việt Yên
cũng phối thờ “Tứ vị Đại vương” họ Trịnh phò giúp vua Đinh dẹp loạn 12 sứ
quân..."
Ngọc phả đình Việt Yên, xã Điệp Nông nguyên bản Hán Nôm (tạm
dịch) chép: Đời Ngô Vương (Ngô Quyền 939 - 944) suy vi, triều thần Dương Tam
Kha làm phản, 12 sứ quân nổi loạn, cát cứ, xưng hùng, xưng bá, đất nước lâm cảnh
loạn ly. Ở trang Tranh Vanh, huyện Đường An, châu Hồng (Hải Dương nay) có nhà họ
Trịnh, húy Thông làm ăn lương thiện.
Hai ông bà Trịnh Thông và Hoàng Thị húy Ngoạn muộn đường con
cái nhưng vẫn chăm làm việc thiện giúp người nghèo khổ. Một lần bà Hoàng Thị
húy Ngoạn nằm mộng vớt được ánh sao sa, từ đó mang thai rồi sinh hạ được nam
nhi, đặt tên là Trịnh Minh Công.
Minh Công lớn lên cũng là lúc bà Hoàng thị lâm bệnh qua đời.
Hai cha con Trịnh Thông bồng bế nhau chạy loạn đến trang An Việt, đạo Sơn Nam
(nay là làng Việt Yên, xã Điệp Nông) thì dừng lại, xin dân làng cho nương nhờ.
Ngẫm cảnh cha con côi cút, dân làng An Việt giúp công, giúp của dựng mái nhà
tranh cho hai cha con Trịnh Thông cư ngụ.
Trong truyền thuyết làng Việt Yên, xã Điệp Nông, huyện Hưng
Hà “Tứ linh miếu” trấn ải 4 góc làng An Việt (cũ) nay là Việt Yên vốn là bốn tiền
đồn ở vườn mơ thuộc trang An Việt (cũ) của 4 vị Đại vương họ Trịnh có công lao
phò giúp vua Đinh dẹp loạn 12 sứ quân là Trịnh Minh Công, Trịnh Lương, Trịnh
Nguyên, Trịnh Khang. Người làng Việt Yên từ xưa khi đặt tên cho con phải kiêng
8 “húy danh” là: Thông, Ngoạn, Hạnh, Minh, Lương, Nguyên, Khang và Bồng (Thiên
Bồng).
Những bản thần phả, ngọc phả còn lưu giữ được về sự tích
đình Việt Yên ghi chép lại: Trịnh Thông (người trang Tranh Vanh, huyện Đường
An, châu Hồng) đến nương nhờ An Việt, lưu lại dạy học cho con trẻ trong làng.
Năm tháng trôi đi, các học trò lớn lên, cảm thấu tình nghĩa
của thầy bèn họp nhau lại tìm cách giúp thầy bớt cảnh cô đơn. Hồi ấy, xứ Khả
Lang, tổng Hà Lý (nay là thôn Khả Lang, xã Dân Chủ) có thôn nữ họ Trần, húy Hạnh,
hiệu là Từ Chất, mới 20 tuổi đã góa bụa. Hạnh nương có nhan sắc, quán trà Hạnh
nương bên sông lúc nào cũng nườm nượp khách.
Các đệ tử trường môn nói với thầy Thông kết mối tơ duyên
cùng Hạnh nương. Thầy Thông đồng ý, các môn sinh ướm hỏi Hạnh nương cũng đồng
ý. Chọn ngày lành, tháng tốt, hôn lễ được tổ chức, Trịnh Thông và Trần Hạnh
nương duyên hài cầm sắt, uyên ương lữ hợp.
Một đêm, Hạnh nương dựa án chiêm bao thấy ba con rồng trên
trời bay xuống, đậu trước hiên nhà biến thành ba con chim Khổng Tước. Từ đấy, Hạnh
nương thai nghén. Sau 13 tháng mang thai, chọn ngày Dần, tháng Chạp, năm Nhâm
Tý sinh hạ một bọc, bọc nở ra ba hài nhi.
Trịnh Thông và Hạnh nương vui mừng khôn xiết, đặt tên con là
Trịnh Lương, Trịnh Nguyên và Trịnh Khang. Ba người con trai lớn nhanh như thổi,
tướng mạo phi phàm, 10 tuổi học một biết mười, thông thạo cung kiếm. Năm 17 tuổi
song thân phụ mẫu của Minh Công (anh cùng cha khác mẹ), Lương, Nguyên, Khang bỗng
dưng bạo bệnh qua đời.
Bốn anh em thương xót an táng song thân phụ mẫu rồi thỏa chí
tang bồng mộ binh cát cứ, uy thanh đại chấn, anh hùng hào kiệt bốn phương tìm
theo. Truyền rằng thuở ấy, Ngô sứ quân (trong loạn 12 sứ quân) cát cứ Trường
Châu nghe tin uy danh của bốn anh em liền đem binh đến dụ quy hàng.
Bốn anh em họ Trịnh bất hợp tác liền bị Ngô sứ đem quân vây
ráp, càn quét, phá phách xóm làng. Bốn anh em chia nhau thiết lập đồn doanh bốn
nơi chống trả Ngô sứ quân. Minh Công lập đồn lũy cửa Chùa, Lương Công lập đồn
lũy cửa Triệu, Nguyên Công lập đồn lũy cửa Kình còn Khang Công lập đồn lũy bến
Bên. Ngô sứ quân dấy binh chinh phạt đều thất bại.
Liên tục nhiều ngày không thắng nổi, Ngô sứ quân đành rút
quân, xóm làng trở lại bình yên, nhân dân biết ơn bốn anh em họ Trịnh. Tiếng
lành đồn xa, Đinh Bộ Lĩnh ở Hoa Lư (Ninh Bình nay) nghe tiếng bốn anh em họ Trịnh
đánh bại Ngô sứ quân cát cứ Trường Châu mừng lắm bèn sai Đinh Điền đến chiêu mộ.
Bốn anh em họ Trịnh nghe tiếng thủ lĩnh cờ lau đã lâu, nay
có đại thần Đinh Điền trực tiếp đến chiêu mộ liền nghe theo. Đinh Bộ Lĩnh phong
Trịnh Minh Công là Quân giới Nguyên soái tướng quân, Trịnh Lương Công làm Thống
Soái tướng công, Trịnh Nguyên Công làm Giám sát tướng quân, Trịnh Khang Công
làm Thượng dũng sứ.
Bốn ông nhận lệnh dẫn quân đến Châu Phong nghênh chiến với
Kiều Công Hãn, qua vài trận giao chiến đã chém được đầu Kiều Công Hãn, quét sạch
tàn quân. Dẹp xong loạn 12 sứ quân, Đinh Bộ Lĩnh thu quân về Hoa Lư lên ngôi
Hoàng Đế, mở tiệc khao quân, gia phong tướng sĩ.
Bốn ông được Đinh Tiên Hoàng phong chức: Chưởng Thiên Quan,
gia phong “Đại Vương Sinh thần” (Được thờ phụng ngay khi còn sống), ban cho
trang An Việt làm nơi hương hỏa phụng thờ Tứ vị Đại vương họ Trịnh khi bốn ông
mất.
Đất nước ca khúc khải hoàn, bốn anh em họ Trịnh dâng biểu
xin vua Đinh cho về trang An Việt xây dựng sinh từ, Đinh Tiên Hoàng chuẩn y,
ban hơn trăm cân vàng, bạc, châu báu. Bốn ông về An Việt mở hội khao dân làng,
truyền cho xây dựng bốn sinh từ, lập hội đồng cung chính giữa cung doanh.
Việc xây dựng xong xuôi, bốn ông lại mở tiệc ba ngày mừng
công, ban cho dân làng 50 hốt vàng, sai mua ruộng, ao làm của công. Bữa tiệc cuối,
bốn ông cùng ngồi uống rượu, ngâm thơ, bỗng dưng trời nổi giông gió, mây đen
kéo đến ùn ùn, mưa như trút nước.
Đến đêm, mưa tạnh gió ngưng, trời quang trăng sáng, dân làng
không thấy bốn ông đâu, chỉ còn khăn áo ở lại. Dân làng kinh hãi tấu lên Đinh
Tiên Hoàng.
Đinh Tiên Hoàng vô cùng thương xót nghĩ đến huân lao của bốn
ông liền phong “Tứ vị Đại vương”, Trịnh Minh Công là “Thiên Quan đương đình” sắc
kiêm “Kiêm nghị Thượng đẳng thần Quản giới nguyên súy Tướng quân Đại vương”;
Lương Công làm “Thiên ứng Trung Quốc thanh cảnh tự nhiên Thống suất Tướng quân
Triết Việt Đại vương”; Nguyên Công làm “Thiên quan Long Kiều Giám sát Tướng
quân Nghiêm nghị Đại vương”; Khang Công làm “Thiên quan Hùng tài Đại lược Thượng
dũng Tướng quân An quốc Đại vương”; vua sai sứ đón Thần sắc về xã Việt Yên làm
lễ tế long trọng, ban cho dân làng Việt Yên ghi Thần hiệu để phụng thờ.
Trải các triều đại Đinh, Lý, Trần, Lê, Nguyễn... các bậc đế
vương đều gia phong mỹ tự Thượng đẳng phúc thần cho “Tứ vị Đại vương Trịnh
công” để dân làng Việt Yên bốn mùa hương hỏa muôn đời...