Đình Vĩnh Ninh là công trình tín ngưỡng văn hoá tiêu biểu duy nhất của dân thôn Vĩnh Ninh, phường Hoàng Văn Thụ, thành phố Bắc Giang, nơi thờ phụng hai vị Thánh Cao Sơn-Quý Minh (hai thuộc tướng thời Hùng Duệ Vương).
Đình Vĩnh Ninh thuộc thôn Vĩnh Ninh, phường Hoàng Văn Thụ,
thành phố Bắc Giang (trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 thuộc xã Dĩnh Kế, tổng
Dĩnh Kế, huyện Phượng Nhỡn, tỉnh Bắc Giang).
Di tích đình Vĩnh Ninh nằm về phía Đông Bắc thành phố Bắc
Giang và đầu đường quốc lộ 31 nên đường đi rất thuận lợi cho khách tham quan,
đình Vĩnh Ninh cùng với các công trình tín ngưỡng văn hoá khác của xã Dĩnh Kế
(nghè Cả và chùa Kế) tạo thành một quần thể di tích liên hoàn có giá trị to lớn
về văn hóa, lịch sử.
Nơi dựng đình là chốn "địa linh" của địa phương,
truyền rằng làng Vĩnh Ninh xưa nằm trên thế đất hình con quy (Rùa), đình làng
được dựng trên đầu quy, mặt ngoảnh nhìn hướng Tây. Đó là nơi thế đất đẹp và
linh thiêng.
Tương truyền ngày xưa bất cứ ai qua đình cũng phải ngả nón,
quan lại đi qua đều phải "hạ mã", nếu không sẽ bị Thánh trừng phạt,
người nào làm việc gì trái đạo lý sẽ bị thánh gieo tai hoạ bất ngờ…
Đình Vĩnh Ninh xưa có quy mô kiến trúc to lớn, đồ sộ, là
công trình kiến trúc cổ, được khởi dựng triều vua Lê cách ngày nay khoảng hơn
300 năm, tu bổ mở rộng vào triều vua Lê niên hiệu Vĩnh Khánh thứ 3 (1731) theo
cấu trúc truyền thống, gồm 3 công trình chính: Tiền tế, trung đình và hậu cung.
Từ xa, người ta có thể dễ dàng nhận ra công trình kiến trúc
quy mô này bởi các công trình của đình nằm trên khu đất cao, bốn mặt có tường
bao ngăn cách với bên ngoài. Từng toà kế tiếp nhau tầng tầng, tạo cảm giác nơi
thờ tự thật sự thâm nghiêm, song vẫn gần gũi thân thuộc bởi các hình khối, đường
nét nhẹ nhàng thanh thoát.
Tòa tiền tế: Liền với mái và cùng bờ chảy với toà trung đình
và toà tiền tế, công trình này gồm ba gian hai trái, khung gỗ lim, với đao cong
mái uốn mềm mại, thanh thoát, chạm khắc, đắp vẽ tài nghệ, tinh xảo, phía trước
có cửa bức bàn.
Tiền tế là nơi hội họp và sắm sửa đồ tế lễ của nhân dân địa
phương. Toà trung đình: Cách hậu cung khoảng 1,50m, công trình này gồm năm
gian hai dĩ, khung gỗ lim, mái lợp ngói, hai bên hai hồi đình không có đao.
Toà này, là nơi tế lễ của nhân dân nên đồ thờ tự được bài
trí đơn giản, gọn gàng gồm có tắc tải, sập thờ, đặt bộ "thất sự", đồng
thời là nơi đặt lễ vật của nhân dân mỗi dịp sự lệ tuần tiết.
Gian giữa toà trung đình (còn gọi là gian lòng giếng, có nơi
gọi là gian lòng đám) thấp hơn hai gian bên. Đó là nơi tế lễ-hai bên là chỗ ăn
ngồi của toàn dân theo tôn ty trật tự truyền thống của làng: “Triều đình trọng
tước, hương đẳng trọng xỉ”(Ở triều đình quí trọng chức tước, ở nhà quê trọng
người rụng răng cao tuổi). Tòa trung đình cũng là nơi đặt chiêng và trống; trên
mái các gian treo hoành phi, các cột treo câu đối sơn son thếp vàng rực rỡ.
Tòa hậu cung: Gồm một gian hai chái, khung gỗ lim mái lợp
ngói, có 4 đao thanh thoát, đỉnh nóc đắp đôi Rồng chầu mặt nguyệt. Tòa hậu
cung là trung tâm thờ tự Nhị đức Thánh Cao Sơn-Quý Minh.
Trong hậu cung, khám thờ được bài trí trang trọng ở gian giữa,
trong khám đặt ngai và bài vị Đức Thánh. Hai bên khám là hai ngựa thờ (nhị
thiên mã thần), trước ngai là nhang án thờ, trên đặt bộ thất sự bằng đồng, hai
bên là bộ siêu đao, bát biểu, trên cùng là bức hoành phi Thượng đẳng tối
linh, hai bên cột treo câu đối.
Trong hậu cung còn đặt kiệu bát cống (bộ đồ rước bài vị và nồi
hương thờ đức Thánh mỗi khi cả xã cùng mở hội ở đình hàng xã và nghè Cả). Tất cả
các đồ thờ tự ở đình đều được tạo tác bằng chất liệu gỗ, được chạm khắc, trang
trí tinh xảo đến từng chi tiết nhỏ, được sơn son thếp vàng rực rỡ thể hiện sự
tài khéo của các nghệ nhân dân gian xưa.
Tất cả là những sản phẩm nghệ thuật cổ đặc sắc mà ít nơi còn
giữ được cho đến nay. Toà hậu cung, có cửa bức bàn, ngăn cách với bên ngoài là
nơi tối linh không ai được vào, trừ cụ thủ phiên.
Ngoài các công trình chính, đình Vĩnh Ninh còn các toà giải
vũ ở hai bên sân đình, cửa toà tiền tế. Mỗi toà 3 gian gỗ lim, mái lợp ngói, tường
xây gạch. Toà bên đông có sàn gỗ để đặt cỗ và lễ vật, toà bên tây không có sàn,
thường được sử dụng làm nơi thịt lợn, làm cỗ việc làng.
Cũng giống như nhiều ngôi đình khác, đình Vĩnh Ninh gắn bó
thân thiết với cuộc sống của mỗi người dân, chứng kiến những thăng trầm của
làng quê Vĩnh Ninh qua trường kỳ lịch sử với bao biến cố của thiên nhiên và xã
hội.
Năm 1950 làng Vĩnh Ninh bị giặc Pháp tàn phá, chúng đốt
làng, dồn dân, lập bốt, tháo dỡ đình làng song trước đó một số cụ cao tuổi
trong thôn đã kịp bí mật chuyển đồ thờ ở hậu cung (ngựa, kiệu, bát biểu) đem dấu
ở nghè Cả, với lời nguyền: "Giặc xâm lăng xã nhà, nhị thiên mã thần phải
lánh xa, thiên thu bất khả lộ".
Dân làng Vĩnh Ninh phải chuyển về ở tạm làng Ngươi (sau trụ
sở UBND xã Dĩnh Kế hiện nay), rồi sau lại di dời sang chợ Thương (Bệnh viện Đa
khoa tỉnh Bắc Giang hiện nay).
Song dù trong hoàn cảnh nào, việc thờ tự Đức Thánh vẫn được
duy trì dù đơn sơ, dù chỉ được dựng lên bằng tranh tre, mái lợp rạ với nồi
hương thờ vọng, tất cả kiên trì chờ ngày đất nước thái bình, độc lập.
Năm 1954, hoà bình lập lại, dân làng Vĩnh Ninh trở về nơi ở
cũ, dựng lại nhà cửa và cũng dựng lại đình xưa, tuy buổi đầu mới có tranh tre nứa
lá. Các cổ vật, các đồ thờ tự quý giá vẫn được cất giữ, bảo vệ ở Nghè Cả.
Năm 1993, toàn dân làng Vinh Ninh tất cả đồng tâm hợp lực,
chung tay tu dựng lại ngôi đình cũ trên nền đình cũ. Công trình mới này tuy nhỏ
bé khiêm nhường so với ngôi đình cũ nhưng vẫn tuân thủ cơ bản theo quy mô, kiến
trúc cũ. Kiến trúc hạng mục công trình ở đây đơn giản-cũng có đao cong,
mái lượn, rồng chầu mặt nguyệt, nhưng kết cấu gỗ chủ yếu là chắc khoẻ chứ không
mang giá trị nghệ thuật cao.
Giá trị nghệ thuật chủ yếu tập trung vào các đồ thờ tự, rước
sách như: Kiệu bát cống, long đình, bát biểu, ngai thờ, hộp sắc, ngựa thờ v.v…được
bài trí nghiêm cẩn trong tòa hậu cung cùng bia đá triều vua Lê niên hiệu Vĩnh
Khánh thứ ba (1781) với nội dung ghi lại việc gửi hậu để tu bổ, mở rộng đình
vào thời Lê của dân thôn và thập phương đã được dựng lại trước cửa toà hậu
cung. Tất cả đều là những cổ vật có giá trị lịch sử và nghệ thuật cao.
Đình Vĩnh Ninh là công trình tín ngưỡng văn hoá tiêu biểu
duy nhất của dân thôn, là nơi thờ hai vị Thánh Cao Sơn-Quý Minh (hai danh
tướng thời Hùng Duệ Vương). Truyền tích về hai Đức Thánh vẫn được nhân dân địa
phương lưu truyền lại qua nhiều thế hệ, truyện kể rằng:
Cao Sơn và Quý Minh là hai anh em sinh đôi từ thời Hùng
Vương thứ 18, trong một gia đình thi lễ, học hành thông mẫn, võ nghệ kỳ tài khó
ai sánh nổi. Khi hai ông 2 tuổi thì cha mẹ đều mất cả. Thời đó, vua Hùng Duệ
Vương hạ chiếu lệnh cho các châu, huyện, đạo để tuyển chọn những người có tài
năng đức độ ra làm quan lãnh binh đánh dẹp giặc ngoại xâm.
Hai ông thấy vậy bèn cùng xin về triều ứng tuyển. Vua thấy
hai ông có tài văn võ hơn người, liền tuyển và lệnh cho hai ông giữ chức chỉ
huy sứ. Tuy được đội ơn mưa móc của vua, nhưng hai ông không quên cha mẹ-việc
tang gia thờ cúng đều rất chu đáo tâm thành. Lại nói: vua Hùng sinh được 4
người con (hai con trai và hai con gái). Nhưng sau đó hai người con trai đều yểu
mệnh mất sớm, còn hai người con gái khi đến tuổi trưởng thành Hùng Duệ Vương gả
một người cho Chử Đồng Tử, một người gả cho vị tướng họ Nguyễn tên Tuân (Sơn
thánh Tản Viên) và muốn truyền ngôi cho.
Cùng khi đó ở đất Ai Lao lại có người họ Thục tên Phán, vốn
là dòng dõi nhà Hùng, sau khi phân nhánh được sang trị vì đất này và đổi họ,
nghe tin Hùng Duệ Vương truyền ngôi cho con rể, Thục Phán đã sinh lòng ghen tức,
bèn đem quân sang xâm lược.
Hùng Duệ Vương lấy làm lo lắng, liền cho vời Sơn Thánh vào
chầu phục mệnh dẹp giặc, Sơn Thánh Tản Viên gọi hai em họ Cao Sơn-Quý Minh đến
lĩnh mệnh và được phong làm tả-hữu tướng quân, tiên phong lên đường dẹp giặc Thục
ở miền Đông Bắc. Hai ông Cao Sơn và Quý Minh vâng mệnh lên đường, trống dong cờ
mở rợp trời.
Khi tới miền Đông Bắc, lộ Bắc Giang thì trời đã xẩm tối, nên
hai ông đã hạ trại đóng quân tại đây. Thấy vùng đất này có nhiều lợi thế cho việc
quân cơ, hai ông truyền lệnh cho quân dân thiết lập luỹ đồn để đánh giặc. Một
hôm đang ngủ trong bản doanh, hai ông đều mộng thấy có thần dân ở trang khu tới
xin trợ giúp cho các ngài. Sáng ra hai ông làm lễ bái yết và cho khao thưởng
quân sỹ. Dân thôn thấy vậy nô nức hưởng ứng giúp đỡ.
Cao Sơn và Quý Minh nói với phụ lão trang khu rằng: Ta vâng
mệnh thiên tử giúp nước an dân, đem quân tới đây lập đồn luỹ bố phòng đánh giặc,
lại được nhân dân giúp đỡ, thổ thần phù trợ, vậy ta cho vàng bạc để nhân dân
trang khu lập miếu từ thờ phụng mãi mãi về sau.
Quả vậy, sau đó hai ông đã dẹp tan giặc Thục, thiên hạ từ đó
được thanh bình, quốc gia vô sự. Sơn Thánh dâng biểu tâu với vua rằng: Nay Thục
đã bình xong, vua cho vời hai danh tướng Cao Sơn và Quý Minh và các tướng sỹ
khác về triều để mở yến tiệc khao thưởng, phong tặng những người có công lao to
lớn.
Hai ông tuân lệnh hồi triều và cũng tâu với vua rằng: Chúng
tôi vâng mệnh bệ hạ cầm quân lên miền Đông Bắc, đạo Bắc Giang trấn giữ đồn luỹ
để dẹp giặc, được thần phù trợ và nhân dân trong vùng hưởng ứng, nên đã giành
được thắng lợi trở về, nay xin báo đáp.
Vua nghe xong bèn cho y chuẩn. Hai ông bái tạ rồi trở về nơi
đóng quân lập đồn luỹ khi trước. Tới đây, hai ông được các cụ và thôn
trang đến chúc mừng, các bô lão tâu rằng: Từ khi hai ông đóng quân ở đây, dân
thôn được yên nghiệp làm ăn, ngày một thịnh vượng, anh khang. Nhân dân xin trên
mảnh đất này - trước làm nơi đồn trú, sau làm đền từ phụng thờ tưởng nhớ.
Hai ông ưng thuận và bảo với các cụ trong thôn rằng: Dân
trang khu có lòng trọng ta để truyền tới muôn đời, nhưng khi xây lập miếu từ thờ
phụng thì hãy cho linh thần sở tại phối hưởng. Hai ông ban cho dân trang khu
vàng, bạc để về sau mở rộng đền từ, ao ruộng giúp cho việc thờ cúng.
Cùng lúc đó có hai đám mây vàng bay xuống chỗ hai ông, đây
cũng là chính là ngày hóa của hai ông. Dân trang khu làm đơn tâu trình lên
vua. Triều đình liền lệnh cho dân trang khu làm lễ tế cúng hai ông, đồng thời
phong tước cho hai vị:
Phong cho đức Cao Sơn là: Thông minh đại vương, tặng
phong tế thế hộ quốc an dân phù vận dương vũ đức thánh bảo cảnh hiện hữu tôn thần,
nguyên tặng hiệu linh đôn tĩnh hùng lược trác vỹ dực bảo trung hưng Thượng đẳng
thần.
Phong cho đức Quý Minh là: Hiển ứng đại vương, tặng
phong phu ký uy dũng, hộ quốc an dân hiến chiêu cảm trật ưu, tôn thần, tặng
thanh lãng cao diện địch, trấn tĩnh dực bảo trung hưng Thượng đẳng thần.
Chuẩn cho dân trang vùng Đông Bắc phụng thờ các ngài mãi mãi
về sau.
Hội đình Vĩnh Ninh hằng năm được tổ chức vào ngày 19, 20
tháng Giêng, trong ngày hội các thái ông, lão bà và nhân dân địa phương, khách
thập phương cùng nhau thành kính dâng nén hương thơm tế Thánh Cao Sơn-Quý Minh,
là cách giáo dục cho các thế hệ tiếp nối sau này lòng biết ơn những người đã có
công lập làng, giữ nước.
Thanh Huyền
Ths Nguyễn Thy Ngà sưu tầm