Đền Và, đền thờ Thần núi Tản viên Sơn Thánh, là ngôi đền thờ vị thần trong Tứ Bất Tử trong truyền thuyết của Việt Nam, đó là Đệ Nhất Phúc Thần Tản Viên, vị tổ của bách thần, còn gọi là Nam Thiên Thần Tổ.
Đền Và còn gọi là Đông Cung trong hệ thống tứ cung của xứ
Đoài (Bắc Cung thuộc xã Tam Hồng, huyện Vĩnh Lạc, Vĩnh Phúc; Nam Cung thuộc xã
Tản Lĩnh, Tây Cung thuộc xã Minh Quang, huyện Ba Vì, Hà Nội).
Theo bia "Vân Già đông trấn cung ký" (雲
遮
東
鎮
宮
記)
dựng ở đầu hồi hai bên nhà tiền tế ở đền năm Tự Đức thứ 36 (1883) thì đền Và đã
có từ thời Việt Nam đang thuộc ách đô hộ của nhà Đường, lúc ấy đền là khu thờ
nhỏ nhưng rất linh ứng. Ngôi đền đã trải qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo, trong
đó có lần trùng tu lớn vào năm 1884.
Sự mở rộng quy mô của đền gắn với sự thành lập và phát triển
của tỉnh Sơn Tây thời Pháp thuộc. Sau khi tỉnh này được lập ra năm 1831 (Minh Mạng
thứ 12), tỉnh lỵ là nơi tập trung nhiều quan chức, thương gia chỉ cách đền Và
khoảng 2 km nên để đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng, những người này cùng với
dân quanh vùng đã hưng công để xây dựng thêm nhà tiền tế 5 gian.
Trước đó, nhà tiền tế đã có nhưng quy mô nhỏ. Cho đến nay,
nhà tiền tế đã trải qua 3 lần tu sửa lớn: tu tạo năm 1829 (Minh Mạng thứ 10), đại
tạo năm 1902 (Thành Thái thứ 14) và lại tu tạo năm 1932 (Bảo Đại thứ 7).
Dựa theo văn tự chữ Hán khắc ở cột thì hậu cung như hiện nay
được làm vào các năm 1915-1919. Gần đây, dự án tôn tạo đền Và đã được Uỷ ban
Nhân dân tỉnh Hà Tây phê duyệt với tổng kinh phí 18 tỷ đồng, dự kiến sẽ bắt đầu
bằng việc tu bổ đền chính trong năm 2008.
Đền Và nằm giữa đồi Và, một đồi cây có diện tích khoảng
17.500 m² trồng nhiều cây lim cổ thụ, ngoài ra còn có mít, thông, đại, muỗm...
Trong đền trồng cây vóc vàng và hai bên nhà tiền tế có hai cây lan cao to, đây
đều là những loài nở hoa về mùa hè.
Theo thuyết phong thuỷ, khu đồi có hình dáng con rùa (Kim
Quy) đang bơi về phía mặt trời mọc. Khu vực kiến trúc rộng khoảng 2.000 m² được
bao ở hai bên và phía sau bởi tường thành bằng đá ong cao 2m15.
Tường được xây hai lớp, theo cách thức thượng thu hạ thách,
chính giữ lèn đất. Trong dân gian lưu truyền rằng, đá ong xây tường được lấy ở
đồi Vông, thôn Vân Gia, còn gọi là "xóm Rắn" nên có câu thành ngữ
"cấu cổ con xà, đè cổ con quy".
Đền có bố cục dàn trải tương đối cân xứng theo trục. Trên trục
trung tâm phía trước sân đền có một bình phong tạo những hang hốc mang vẻ tự
nhiên. Mặt ngoài của bình phong thờ ngũ hổ trong hang với trung tâm là hổ vàng,
mặt sau của động này đắp hình "long cuốn thuỷ" dưới dạng tứ linh với
ý nghĩa cầu cho mưa thuận gió hoà, được mùa và có người tài ra giúp dân giúp nước.
Qua một sân rộng khoảng 300 m2 có tường thấp bao quanh, đến
"nghi môn" - cổng chính của đền. Tiếp đến là một khoảng sân rộng, được
khuôn vuông bằng hệ thống công trình kiến trúc khép kín. Liền sát nghi môn,
đăng đối hai bên theo chiều dọc là gác chuông và gác trống, rồi đến hai dãy tả
mạc, hữu mạc, nhà kho, phía sau tả hữu mạc mỗi bên đều có nhà tạo soạn và là
nơi nghỉ tạm cho khách hành hương.
Nhà tiền tế (hay tiền bái) năm gian nằm song song với nghi
môn ở phía cuối sân, hai đầu nhà tiền bái có tháp thiêu hương để hoá vàng mã
sau khi cúng tế xong. Hậu cung hình chữ "công", cách tiền tế 1,2m, đầu
nhà có bể nước và một gian nhà nhỏ để kiệu.
Mặt thoải sườn đồi đã được lợi dụng để giải quyết chiều cao
kiến trúc. Lối bố trí kiến trúc theo hướng đi lên khiến cho các công trình như
được nâng cao dần, đặc biệt là nghi môn, tiền tế, hậu cung. Mặc dù kết cấu các
công trình đều thấp nhưng người xem vẫn có cảm giác đền có xu hướng vươn lên.
Nghi môn: gồm ba gian dựng trên nền cao, gian giữa cao 4m80,
hai gian bên cao 2m15. Nghi môn có đặc điểm dễ nhận biết là ba hàng chân cột gỗ
kê trên những chân tảng đá ong (cột cái cao 4m95, cột quân 3m80). Đây là một
nghi môn khá hiếm gặp trong kiến trúc truyền thống Việt Nam, ngoài Nghi môn
này, có thể thấy kiến trúc tương tự tại đền Vua Đinh (thế kỷ 17), Đại Thành môn
ở Văn Miếu, Tam quan chùa Bút Tháp.
Gác trống, gác chuông: dựng hai bên và ngay sát nghi môn và
kiến trúc tương tự nhau với kiểu chồng diêm 8 mái phỏng theo gác trống, gác
chuông chùa Thầy và có dáng dấp của Khuê Văn Các trong Quốc Tử Giám. Mặt hướng
vào sân đền được trang trí theo chủ đề ngũ phúc bằng hình năm con dơi xoè cánh
ôm lấy cửa sổ tròn.
Tả mạc, hữu mạc (hay tả vu, hữu vu): tiếp nối với gác chuông
và gác trống xây dựng theo kiểu chồng diêm, hai tầng tám mái, tường hồi bít đốc,
nóc kết cấu "vì kèo quá giang", mặt trước có cột vuông trên nền tam cấp,
mặt trong để trống.
Nhà tiền tế và hậu cung: nhà tiền tế hình chữ "nhất"
(一),
kiến trúc theo lối 5 gian 2 chái chồng rường, giá chiêng; hệ thống cột cái, cột
quân bào nhẵn kiểu "thượng thu hạ thách" đặt lên tảng kê chân cột bằng
đá.
Trên cột là một hệ thống hoành phi, câu đối cổ được chạm khắc
tinh xảo. Hậu cung hình chữ "công" (工), toà ngoài kết cấu 3 gian 2
chái lớn (dài 14m10, rộng 8m90). Đường vào hậu cung có một bộ vì lớn, làm theo
kiểu thượng ván mê, hạ chồng rường trên xà nách.
Bên dưới bộ vì mở ba cửa, hai cửa bên là lối đi vào hậu
cung, cửa giữa là cửa thờ. Toà nhà bên trong cũng có kết cấu 3 gian 2 chái
nhưng thấp hơn toà ngoài. Hậu cung đặt một khám thờ cao hơn 3m sơn son thếp
vàng được chạm trổ cầu kỳ mang phong cách nghệ thuật thế kỷ 17.
Trong cùng là bài vị của Đức Quốc Mẫu (bà Đinh Thị Điên, mẹ
Thánh Tản Viên mà dân gian gọi chệch đi là Bà Đen). Tiếp đến là 3 bài vị của Tam
vị Đức Thánh Tản (gồm Thánh Tản Viên và hai người em con chú là Cao Sơn, Quý
Minh).
Trước khám thờ có hương án bày long ngai bài vị của ba vị,
phía trên khám treo bức đại tự "Thượng đẳng tối linh thần" (上
等
最
靈
神)
niên đại Tự Đức Quý Mùi (1883).
Toà ngoài của hậu cung có 4 bức tượng kích thước như người
thật đứng nhìn vào nhau, tay cầm vũ khí và khoác áo bào đỏ gọi là "Tứ Thánh"
trấn ở bốn cung quanh núi Ba Vì. Ngoài hiên nhà có hai pho tượng quan văn, quan
võ ngồi hướng vào nhau. Cách bài trí hậu cung mô phỏng thiết chế triều đình xưa
trong con mắt người dân.
Đền Và đang lưu giữ năm bản thần tích "Tản Viên Sơn
Thánh"; 18 đạo sắc phong của các đời vua, trong đó có 17 bản chính có dấu ấn;
47 đôi câu đối được chạm khắc, viết trên vách cột, trên gỗ và 18 bức hoành phi
viết trên gỗ hoặc đá. Nơi đây còn có 2 bia đá, 3 chuông đồng, 4 tấm biển gỗ.
Trên những hiện vật đó khắc ghi thời gian xây dựng, tu sửa,
ca ngợi cảnh quan, uy linh của Thánh Tản Viên với nhiều nét trang trí có giá trị
mỹ thuật cao vừa thể hiện nét văn hóa tâm linh. Các bản thần tích, sắc phong,
văn bia đền Và rất giàu giá trị Hán-Nôm, trong đó có văn thơ của Nguyễn Khản,
Nguyễn Thiện Kế, Trần Lê Nhân..
Lễ hội đền Và diễn ra "xuân thu nhị kỳ". Hội
mùa xuân vào dịp rằm tháng Giêng kéo dài từ khoảng 13 đến 15 (âm lịch) với nghi
lễ trung tâm là rước long ngai bài vị "Tam vị Đức Thánh Tản" từ đền
Và qua sông Hồng sang tả ngạn ở đền Dội (xã Vĩnh Ninh,
huyện Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc) là nơi theo truyền thuyết Thánh Tản Viên đã tắm để
tế lễ diễn lại sự tích này rồi quay trở lại đền Và.
Cứ vào các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu thì hội rằm tháng Giêng được
tổ chức lớn hơn gọi là hội chính. Hội mùa thu tổ chức vào rằm tháng Chín, từ 14
đến 15 (âm lịch) với nghi thức chính là đánh bắt cá ở sông Tích để chọn ra 99
con cá trắng to chế biến thành các món tế Thánh. Việc tế cá xuất phát từ truyền
thuyết Thánh Tản Viên dạy dân kéo vó và bắt được 100 con cá, sau đó ngài phóng
sinh một con cá trê đang có mang, về sau con cá này sinh được chín con, đều hoá
đá, đầu chầu về hướng đền Và.
Ban thờ Cô Chín Thượng Ngàn, người cai quản non ngàn thăm thẳm.