Động Hoa Lư là căn cứ đầu tiên của sứ quân Đinh Bộ Lĩnh đối với sự nghiệp thống nhất giang sơn thế kỷ X, là một thung lũng, bốn bề núi đá như một tường thành thiên nhiên vô cùng kiên cố, trên vách đá, những cây lau đu đưa theo làn gió như cờ lau của Vua và những “mục đồng anh hùng” xa xưa, người xưa gọi là Thung Lau.
Động Hoa Lư còn gọi là Thung Lau hay Thung Ông (Hoa Lư là âm
Hán Việt của từ hoa lau, động Hoa Lư ở đây có nghĩa là động có nhiều bông
lau, như tên nôm của nó là Thung Lau; còn tên Thung Ông là gọi theo đền ở trong
thung xưa thờ “thánh Ông” Nguyễn Minh Không, khác với “thánh Bà” ở Thung Lá bên
cạnh), thuộc địa phận thôn Uy Viễn, Uy Tế xưa, nay là xã Gia Hưng, huyện Gia Viễn,
tỉnh Ninh Bình. Động Hoa Lư là động ở xã Gia Hưng thuộc huyện Gia Viễn, tỉnh
Ninh Bình, Việt Nam.
Động được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia
tại quyết định số 51/VH-QD (Nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) ngày 1
tháng 12 năm 1996.
Trong lịch sử động Hoa Lư là căn cứ đầu tiên của sứ quân
Đinh Bộ Lĩnh đối với sự nghiệp thống nhất giang sơn thế kỷ X. Động nằm cách Cố
đô Hoa Lư khoảng 15 km và cách thành phố Ninh Bình 20 km đường bộ về phía Bắc.
Động được hiểu là một địa danh hoặc vùng đất, di tích này là
một thung lũng rộng khoảng 16 mẫu nằm lộ thiên được bao bọc bởi các ngọn núi
vòng cung. Bốn bề động Hoa Lư được núi đá bao quanh vô cùng kiên cố, chỉ có một
lối vào duy nhất là một quèn nhỏ cao khoảng 30 m. Bao bên ngoài động là đầm
Cút, dài khoảng 3 km rộng 500m, như con hào thiên nhiên chắn giữ. Từ đây có thể
tiến ra sông Đáy.
Phong cảnh đầm Cút ở bên ngoài động Hoa Lư
Cây đa cổ trên đường vào Động Hoa Lư
Động Hoa Lư là căn cứ đầu tiên của sứ quân Đinh Bộ Lĩnh đối
với sự nghiệp thống nhất giang sơn thế kỷ X, động nằm cách Cố đô Hoa Lư khoảng
15km về phía bắc. Sử cũ cho biết, Đinh Bộ Lĩnh vào khoảng năm 924 ở động Hoa
Lư, châu Đại Hoàng.
Có người hiểu Hoa Lư là một địa danh hành chính hay một động
núi. Điều đó làm cho nhiều người lầm lẫn giữa quê hương là một làng cụ thể của
Đinh Bộ Lĩnh với động Hoa Lư, căn cứ ban đầu của Đinh Bộ Lĩnh và Kinh đô Hoa Lư
của ông.
Đại Việt sử ký toàn thư chép động Hoa Lư là nơi sinh của vua
Đinh Tiên Hoàng, các nhà nghiên cứu cho biết động Hoa Lư xưa bao gồm cả vùng đất
quê cha Đinh Bộ Lĩnh ở làng Đại Hữu, châu Đại Hoàng, nay là xã Gia Phương, Gia
Viễn, Ninh Bình và khu căn cứ quân sự động Hoa Lư hiện nay ở xã Gia Hưng, Gia
Viễn. Trong dân gian vẫn lưu truyền câu ca:
"Đại Hữu sinh vương - Điềm Dương sinh thánh"
(Làng Đại Hữu sinh vua Đinh Tiên Hoàng - Làng Điềm Dương
sinh thánh Nguyễn Minh Không).
Cha mất sớm, Đinh Bộ Lĩnh cùng mẹ về ở cạnh đền sơn thần,
nay là đền Long Viên (vườn rồng) thôn Mỹ Hạ, xã Gia Thủy, Nho Quan, Ninh Bình,
Nơi đây chính là quê mẹ ông.
Hàng ngày Đinh Bộ Lĩnh đi chăn trâu cắt cỏ cho chú là Đinh
Thúc Dự. Tương truyền Đinh Bộ Lĩnh chăn trâu ở cánh đồng Rộc Xéo, tập trận cờ
lau ở động Hoa Lư (thung Lau), thung Lá, thung Lụi. Tất cả các vùng này ở hai
bên tả ngạn và hữu ngạn sông Bôi thuộc xã Gia Thủy, Nho Quan và xã Gia Hưng,
Gia Viễn, Ninh Bình. Vì các địa danh trên rất gần động Hoa Lư Gia Viễn nên hầu
hết các sách sử khẳng định ông sinh ra ở động Hoa Lư.
Tuy được gọi là động nhưng thực chất đây là một thung lũng rộng
khoảng 16 mẫu được bao bọc bởi các ngọn núi vòng cung, là nơi Đinh Bộ Lĩnh cùng
trẻ mục đồng “Cờ lau tập trận” thuở thiếu thời, là căn cứ ban đầu của Sứ quân
Đinh Bộ Lĩnh. Động Hoa Lư nằm trong sơn hệ đá vôi chạy dọc hữu ngạn sông Đáy.
Động nằm giữa bốn bề núi cao dựng đứng, có dạng gần tròn, đường
kính khoảng 200m tạo nên một bức tường thành thiên tạo vững chãi. Vào động
chỉ có một lối duy nhất là một quèn nhỏ cao khoảng 30m với dốc đá lởm chởm rất
khó đi lại, gần đây đã xây dựng bậc đá cho dễ đi lại. Bao bên ngoài động là đầm
Cút, dài khoảng 3 km rộng 500m, như con hào thiên nhiên bảo vệ động Hoa
Lư.
Động nằm gần đường Thượng đạo, một con đường cổ, ra bắc vào
nam. Cách độ 2 km là sông Bôi (Từ Hòa Bình đổ về), từ động Hoa Lư, ra sông
Hoàng Long, rồi ra sông Đáy để ra biển Đông hay từ sông Đáy ra sông Hồng để lên
Thăng Long, hoặc từ động Hoa Lư theo sông Bôi để lên tây bắc rất thuận lợi. Động
Hoa Lư tuy là địa bàn hẻo lánh, nhưng là một địa bàn có núi rừng hiểm trở, đường
thủy, đường bộ thuận tiện cho việc “lui có thể thủ, tiến có thể công”.
Nguồn gốc tên gọi
Về tên gọi Hoa Lư, các nhà nghiên cứu hán nôm khẳng định rằng:
Hoa Lư là một danh từ riêng chỉ một vùng đất chứ không phải tên người, tên vật
hay thần linh. Hiện vẫn tồn tại rất nhiều cách hiểu khác nhau về danh xưng này:
Hoa Lư là hoa lau
Chữ hoa viết là hoa (花) nghĩa ở đây hiểu là bông hoa,
còn nếu viết hoa (華) nghĩa hiểu là phồn hoa, rực rỡ. Tuy vậy có lúc hai
chữ hoa này dùng ngang nhau. Chữ (蘆) "lư" còn đọc là
"lô" hay "lau" là: bông lau. "Hoa lư" (花蘆)
với nghĩa là hoa lau, theo lô gích ngữ pháp tiếng Hán phải viết là Lư Hoa (蘆花)
như cách viết hồng hoa (紅花) mai hoa (梅花)
thì khi dịch sang tiếng Việt mới là hoa lau, hoa hồng, hoa mai được. Cho nên với
cách viết Hoa Lư (花蘆) thì dịch ra tiếng Việt sẽ là Lư Hoa chứ không phải
là Hoa Lư.
Cảnh quan Hoa Lư là một vùng toàn núi đá vôi, có rất nhiều
lau lách mà gọi tên là Hoa Lư. Qua các tư liệu thư tịch, dã sử, văn bia ghi
chép lại: Trong tập Hoa động đồ trung thập vịnh (mười bài vịnh trong bức vẽ động
hoa) của Phạm Văn Nghị thế kỉ XIX ở bài Đinh miếu vịnh có ghi: 五基兵陣蘆旗出
"Ngũ cơ binh trận lư kì xuất" (Năm đội binh mã cờ lau xuất hiện).
Trong bia dựng năm Chính Hòa 17 (1696) "Tiền triều tăng tu điện miếu công
đức bi ký" ghi: 恬應黃龍蘆旗嚴令 "Điềm ứng Hoàng
Long, lư kì nghiêm lệnh" (Điềm ứng rồng vàng, cờ lau nghiêm lệnh).
Hoa Lư là cổng làng Hoa
Theo cách viết Hoa Lư (華閭) thì chữ Lư (閭)
mang nghĩa là cổng làng, được viết bằng chữ (門) bên ngoài chữ lữ (呂)
bên trong. Vì thế cho nên chữ Lư ở đây có người hiểu là cổng làng.
Hoa Lư là cái lò hoa
Theo cách viết (華鑪) người ta hiểu Hoa Lư là cái
lò hoa vì thấy viết ở một số hoành phi, câu đối, ngay cả bức đại tự ở động Hoa
Lư cũng viết Hoa Lư động (華鑪洞) vậy là xuất hiện cách viết
chữ Lư (鑪) có bộ kim bên cạnh. Cho nên có ý kiến cho rằng Hoa
Lư với nghĩa cái lò hoa.
Hoa Lư còn hiểu theo các nghĩa là: đồ nấu cơm có hoa, là đồ
đựng lúa (華蘆) hay Hoa Lư là miệng con lừa hoa được viết (華驢)
v.v.. Tùy theo chữ viết và cách lý giải khác nhau nghĩa nào cũng có cái hay cái
thâm thúy của bậc tiền nhân, song Hoa Lư cho đến nay thường được hiểu là Hoa
Lau.
Nhà nghỉ và trông coi Di tích lịch sử Động Hoa Lư
Quèn đá ra vào động Hoa Lư
Vua Đinh Bộ Lĩnh mồ côi cha từ nhỏ, phải cùng mẹ về ở cạnh đền
Sơn thần (Gia Thuỷ, huyện Nho Quan), hàng ngày Đinh Bộ Lĩnh đi chăn trâu cho
chú là Đinh Thúc Dự và tập trận cờ lau ở động Hoa Lư. Từ tập trận cờ lau, Đinh
Bộ Lĩnh đã tiến lên tập hợp lực lượng, lấy động Hoa Lư làm căn cứ ban đầu, làm
chủ được đất động Hoa Lư của mình và cả Sách Bông của chú Đinh Thúc Dự.
Đến năm 953, lực lượng của Đinh Bộ Lĩnh tại động Hoa Lư đã mạnh, khiến hai vua Xương Văn, Xương Ngập đem quân đánh hơm một tháng trời mà
không thắng. Sau đó, vua Đinh Bộ Lĩnh gia nhập sứ quân Trần Lãm ở Bố Hải Khẩu (tỉnh
Thái Bình), sau được Trần Lãm giao quyền chỉ huy, mở rộng ảnh hưởng của mình từ
cùng rừng núi động Hoa Lư tới miền đồng bằng rộng lớn hạ lưu sông Hồng.
Sau khi Trần Lãm mất, vua Đinh Bộ Lĩnh thống nhất toàn thể quân
đội và tiến lên dẹp loạn 12 xứ quân, thống nhất đất nước. Năm 968, đức ông lên ngôi
hoàng đế, hiệu là Đinh Tiên Hoàng đế, đặt tên nước là Đại Cồ Việt đóng đô ở Hoa
Lư, niên hiệu riêng là Thái Bình. Việc vua Đinh xưng đế, đặt tên nước riêng,
đặt niên hiệu được các nhà nho xưa xem như ông là người mở ra nền chính thống
cho chế độ phong kiến trung ương tập quyền ở Việt Nam.
Nghi môn đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng trong động Hoa Lư
Mặt thung lũng động Hoa Lư có một thành đất dài khoảng 250m
gọi là thành bảo, thành bảo có thể là thành của Đinh Bộ Lĩnh khi xưa. Xưa kia, ở
giữa động chỉ có một ngôi đền nhỏ là đền Thung Lau.
Đền Thung Lau quay hướng nam, kiến trúc kiểu chữ đinh. Tiền
đường 3 gian, 4 hàng 16 cột. Vì kèo kiểu chồng rường, hoành vuông, ngói vảy, ở
giữa trên tiền đường có treo một tấm đại tự: “Hoa Lư động”. Hậu cung 1 gian, 3
hàng 8 cột vì kèo kiểu chồng rường, dáng cao, mái thẳng.
Tương truyền xưa kia đền thờ Đinh Bộ Lĩnh sau đó nhân dân rước
về thờ chung ở đình Ba Xã (cùng xã Gia Hưng) và rước chân nhang Nguyễn Minh
Không ở đền Điềm Xá về thờ. Thiền sư Nguyễn Minh Không tên thật là Nguyễn Chí
Thành, hiệu là Minh Không, được vua Lý Thần Tông phong làm quốc sư, là một vị
cao tăng đứng đầu tổ chức phật giáo của triều đại nhà Lý trong lịch sử,
được xem là vị thiền sư sáng lập nên nhiều ngôi chùa cổ và được tôn vinh
là ông tổ nghề đúc đồng Việt Nam.
Vì có nhiều công lớn chữa bệnh cho vua và nhân dân mà
ông được người Việt tôn sùng là Đức Thánh Nguyễn. Một số
ghi chép xưa xếp ông là một vị thánh trong tứ bất tử. Trong truyền thuyết dân
gian, Nguyễn Minh Không là một nhân vật huyền thoại, xuất hiện với nhiều tình
tiết kỳ bí như khi tu thiền đắc đạo có thể đi mây về gió, niệm chú cho chim lạ
rơi xuống đất, ngả nón làm thuyền vượt sông cả, cho cả kho đồng nước Tống vào
túi đem về đúc tứ đại khí, thò tay vào vạc dầu đang sôi vớt hàng trăm chiếc kim
chữa bệnh cho vua Lý Thần Tông… Hiện nay ở vùng đất Ninh Bình nói
riêng và châu thổ sông Hồng nói chung có rất nhiều đền thờ ông, nhiều địa
danh ở Ninh Bình gắn với sự tích về ông như Kẽm Đó, Kênh Gà, Sinh Dược…
Đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng trong động Hoa Lư
Qua công tác tu bổ, tôn tạo di tích những năm gần đây, động
Hoa Lư được đầu tư tôn tạo với quy mô lớn, khang trang. Phía bên ngoài động là
cổng đá, bến đỗ xe cho khách thập phương, vượt qua quèn đá gồm 240 bậc uốn lượn
thành 9 khúc (hình rồng, tượng trưng cho cho uy quyền của bậc đế vương). Ở vách
đá gần quèn ra vào động có tấm bia: “Tôn tạo động Hoa Lư sử thạch bi” dựng năm
Đức Long thứ 2 (1630) nói về việc tu sửa đền Thung Lau.
Hậu cung đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng
Theo thẳng con đường chính đạo lát đá là đến Nghi môn. Nằm ở
giữa động là ngôi đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng và hội đồng văn võ triều Đinh.
Chính giữa trên cao có bức đại tự ghi 3 chữ Hán “Hoa Lư động” (Động Hoa Lư) bằng
khảm trai. Đền xây trên nền thành bảo xưa. Trong đền người có một tấm biển gỗ
khắc bài thơ bằng chữ Hán của Thúc Bào Lã Xuân Oai làm năm Tân Mùi, niên hiệu Tự
Đức (1871), mô tả quang cảnh động Hoa Lư. Phía sau đền vua Đinh là đền thờ Thánh
Nguyễn Minh Không.
Hàng năm, dịp đầu xuân ở đây diễn ra lễ hội động Hoa
Lư (lễ hội đền Thung Lau). Lễ hội tương đối giống lễ hội cố đô Hoa Lư nhưng có
quy mô nhỏ hơn, diễn ra vào ngày 8 tháng 10 âm lịch. Động Hoa Lư đã được Bộ Văn
hoá Thông tin xếp hạng là di tích lịch sử cấp Quốc gia năm 1996.
Hành trình lịch sử
Cùng với cố đô Hoa Lư ở huyện Hoa Lư, các di tích động Hoa
Lư, thung Lá, đền thờ Đinh Bộ Lĩnh thuộc huyện Gia Viễn là những di tích liên
quan đến cuộc đời và sự nghiệp của vua Đinh Tiên Hoàng. Trong các di tích trên
thì đền thung Lá đã được đầu tư xây dựng xong.
Đây là nơi thờ thân mẫu của vua Đinh Bộ Lĩnh. Thung Lá ngay
cạnh Thung Lau, cũng nằm lọt giữa thành núi cao ngất, tương truyền xưa kia có một
nữ vương chuyên bói lá rất giỏi, thường xem lá cho Vua Đinh Tiên Hoàng trước
khi xuất quân hay làm một việc gì đó.
Nơi này cũng có nhiều cây thuốc chữa bệnh tốt nên khi nghĩa
quân Vua Đinh bị thương đều được bí mật đưa về đây cứu chữa. Người ta cũng kể rằng,
Thung Lá là vùng rừng linh thiêng nên mọi người đều vào đây thắp hương trước
khi đi rừng. Thung Lá có đền thờ Mẫu hậu vua Đinh và thờ Vương bà bí ẩn đã có
nhiều công lao giúp Vua Đinh dẹp loạn. Động Hoa Lư đang được xây dựng, tu bổ để
trở thành một điểm du lịch lịch sử.
Có ý kiến cho rằng nếu trước đây, du khách đến Ninh Bình
thăm cố đô Hoa Lư sau đó đi Bích Động hoặc nhà thờ đá Phát Diệm, thì hiện nay
du khách tham quan tuyến di tích liên quan đến Vua Đinh Tiên Hoàng với điểm đến
là quê hương của vua Đinh, làng Đại Hữu, sau tới động Hoa Lư là căn cứ khởi
nghĩa ban đầu của vua, tiếp đó là kinh đô Hoa Lư.
Giải thích vùng rừng thiêng nước độc này được Vua Đinh Tiên
Hoàng chọn làm căn cứ khởi nghiệp, những người am hiểu lịch sử Ninh Bình cho biết
nơi này độc đạo, không thể vào sâu hơn và là nơi có nhiều huyền thoại bí hiểm,
không ai dám vào để đảm bảo tuyệt mật về quân sự. Khu vực Thung Lau, Thung Lá
được vua Đinh giấu một đội quân đặc biệt tinh nhuệ và khi cần thiết đưa ra giao
chiến.
Lễ hội động Hoa Lư
Lễ hội truyền thống động Hoa Lư hay Lễ hội Vua Đinh là một lễ
hội có sự tham gia của toàn thể nhân dân xã Gia Hưng, huyện Gia Viễn.
Lễ hội tổ chức tại 4 địa điểm: Đình Trai; chùa Hưng Quốc; động
Thung Lau; đền Thung Lá, diễn ra từ ngày 10 đến ngày 13 tháng giêng hàng năm.
Đây là dịp để tri ân các bậc tiền nhân như Đinh Tiên Hoàng Đế, Thái hậu Dương
Vân Nga, Quốc sư Nguyễn Minh Không… Với đạo lý uống nước nhớ nguồn, lễ hội được
cộng đồng dân cư tổ chức nghiêm trang với nhiều nghi lễ tế, rước, bên cạnh đó
là những trò chơi dân gian như đấu vật, cờ lau tập trận, múa lân, hát chèo, hát
dân ca tạo không khí vui tươi, phấn khởi cho nhân dân dự hội.
Lễ hội động Hoa Lư còn diễn ra vào ngày 8 tháng 10 âm lịch
hàng năm với quy mô nhỏ hơn lễ hội cố đô Hoa Lư. Khi diễn ra lễ hội, người dân
đều tổ chức rước chân nhang Hoàng Thái hậu và Mẫu bà từ thung Lá về thung Lau.
Ngoài ra, lễ hội còn tổ chức vào dịp lễ hội cố đô Hoa Lư và
đền Đinh Bộ Lĩnh ở Gia Phương. Dân gian vùng bắc Ninh Bình ghi lại việc thờ tự
Vua Đinh ở hai nơi là Đại Hữu và Đào Ao trong câu:
"Đại Hữu làm sao, Đào Ao làm vậy".
Đại Hữu là quê của Đinh Bộ Lĩnh, còn Đào Ao (thuộc tổng Uy
VIễn, tức vùng Uy Tế, ngày ngay gồm các xã Liên Sơn, Gia Hưng, Gia Phú của huyện
Gia Viễn (nay là khu vực động Hoa Lư) là nơi Đinh Bộ Lĩnh được bầu làm Trưởng.
Cả hai nơi này đều có đền thờ vua Đinh. Hàng năm, vào ngày 10 tháng 03 âm lịch.
Khi Đại Hữu mở hội thì đền thờ vua Đinh ở Đào Ao (cổ) củng làm như vậy.