Đền Hùng nằm ở thôn Cổ Tích, xã Hy Cương, còn lưu giữ được bản Hùng Vương ngọc phả soạn vào năm Hồng Đức nguyên niên (1470) bởi Hàn lâm viện trực học sĩ Nguyễn Cố. Cuốn ngọc phả này kể lại sự tích các vị vua Hùng từ đầu cho tới khi Triệu Đà diệt An Dương Vương lập nước Nam Việt.
Ngai thờ 3 vị vua Hùng ở thôn Cổ Tích, xã Hy Cương, Việt Trì, Phú Thọ.
Năm 2018, loạt bài viết “Thiền sư Lê Mạnh Thát và những phát
hiện lịch sử chấn động” của nhà báo Hoàng Hải Vân đã thu hút sự chú ý của bạn đọc
và nhận được nhiều ý kiến đóng góp, phản hồi, phản biện xung quanh những vấn đề
liên quan đến các kết luận của thiền sư về lịch sử Việt Nam.
Tuy nhiên, có thể do chưa có đầy đủ tư liệu, thiền sư Lê Mạnh
Thát đã chưa đi sâu vào phân tích và nghiên cứu một chủ điểm quan trọng, đó là
lịch sử dân tộc thời kỳ Hùng Vương.
Thời đại Hùng Vương trong lịch sử dân tộc Việt có tồn tại
hay không và tồn tại như thế nào? Đây là một câu hỏi của không ít con dân người
Việt ngày nay còn đang loay hoay trước sự đa dạng và khó phân định của các lập
luận từ nguồn tư liệu sử học khi nhìn về nguồn cội.
1. Từ lòng yêu mến đối với lịch sử nước nhà, tôi có may mắn
được gặp sư thầy Tâm Hiệp trên hành trình tìm về nguồn cội của thầy. Thầy Tâm
Hiệp là một người từ bé đã xuất gia theo Phật nhưng lại có tình yêu đặc biệt với
văn hóa Việt. Thầy cho rằng, văn hóa của người Việt là nền văn hóa được xây dựng
từ lòng biết ơn và niềm thương kính với nguồn cội.
Từ đó, xếp gọn y vàng, thầy rong ruổi trên khắp các nẻo đường
của vùng đồng bằng Bắc Bộ và ở quê hương Quảng Trị để nghiên cứu tìm hiểu vấn đề
này. Bên cạnh trang kinh là những tập tư liệu Hán Nôm thầy tìm được từ những
ngày điền dã khắp các vùng quê trong dân gian.
Gần đây, cùng với nhóm nghiên cứu di sản văn hóa đền miếu Việt,
thầy Tâm Hiệp đã cho ra mắt cuốn sách: Hùng Vương Thánh Tổ ngọc phả sưu khảo.
Đây là bản sưu tầm, dịch và phiên chú đầy đủ tư liệu phả ký lưu giữ tại Hùng
Vương miếu ở thôn Vân Luông, xã Vân Phú, Việt Trì, Phú Thọ. Cuốn sách đã được
Nhà xuất bản Dân Trí xuất bản đúng vào dịp giỗ tổ 10.3 năm 2020.
Mỗi lần về với đền Hùng vào ngày giỗ tổ, tôi luôn tự hỏi, đền
Hùng trên núi Nghĩa Lĩnh hiện thờ ai? Khi nói chuyện với các hướng dẫn viên ở
đây, tôi được biết ở cả 3 khu đền Thượng, đền Hạ và đền Trung trong quần thể di
tích đều đặt 3 ngai vị là:
- Đột ngột Cao Sơn Cổ Việt Hùng Thị thập bát thế Thánh vương
- Ất Sơn Thánh vương
- Viễn Sơn Thánh vương
Người hướng dẫn ở đền Hùng giải thích với tôi rằng, đây là
ba vị thần núi, tương ứng 3 ba chòm núi Nghĩa Lĩnh, núi Trọc và núi Vặn ở vùng
Việt Trì. Tuy nhiên, điều này không khỏi làm tôi hoang mang.
Chẳng nhẽ quốc tổ vua Hùng nước ta lại là 3 vị thần núi? Tôi
đem băn khoăn này chia sẻ với sư thầy Tâm Hiệp và xin mạo muội ghi lại những ý
chính được sư thầy giải đáp dưới đây.
Sư thầy Tâm Hiệp cho hay, đền Hùng nằm ở thôn Cổ Tích, xã Hy
Cương, còn lưu giữ được bản Hùng Vương ngọc phả soạn vào năm Hồng Đức nguyên
niên (1470) bởi Hàn lâm viện trực học sĩ Nguyễn Cố. Cuốn ngọc phả này kể lại sự
tích các vị vua Hùng từ đầu cho tới khi Triệu Đà diệt An Dương Vương lập nước
Nam Việt.
Tuy nhiên, trong cuốn ngọc phả của Hy Cương lại không hề đề
cập đến các tên gọi Đột Ngột Cao Sơn, Ất Sơn và Viễn Sơn. Đây là lý do làm cho
các nhà nghiên cứu cho rằng, 3 ngai vị ở đền Hùng là 3 vị thần núi địa phương.
Từ đó, cả ban quản lý Đền Hùng và những người dân cũng chỉ biết chung chung như
vậy.
Trang đầu của cuốn Nam Việt Hùng Vương Ngọc phả vĩnh truyền
miêu duệ tôn điệt ức vạn niên hương hỏa tự điển tôn sùng.
Trang đầu của cuốn Nam Việt Hùng Vương Ngọc phả vĩnh truyền
miêu duệ tôn điệt ức vạn niên hương hỏa tự điển tôn sùng.
Nhưng nay, với phát hiện bản Hùng Vương Thánh tổ ngọc phả
lưu tại đền Vân Luông, sự việc về 3 vị vua Hùng được thờ trở nên rõ ràng hơn
bao giờ hết. Phần thứ nhất trong bản ngọc phả có tên Nam Việt Hùng Vương ngọc
phả vĩnh truyền tự điển, trong đó ghi chép đầy đủ các tên gọi, ngày sinh, thời
gian trị vì của các đời vua Hùng.
Theo cuốn điển thờ này, Đột Ngột Cao Sơn là mỹ tự truy phong
(tên thờ) của Hùng Quốc Vương - người con trưởng trong trăm người con trai của
Lạc Long Quân và Âu Cơ. Tương tự, Viễn Sơn là thụy hiệu của Hùng Hy Vương và Ất
Sơn là thụy hiệu của Hùng Hi Vương, 2 vị vua Hùng kế tiếp Hùng Quốc Vương.
Như thế, đền Hùng ở Phú Thọ thực chất là thờ 3 vị vua Hùng đầu
tiên của thời đại Hùng Vương, là những vị vua Hùng được ghi chép trong điển thờ
quốc gia (ngọc phả). Không thể có chuyện quốc tổ người Việt lại là 3 vị thần
núi.
2. Ngọc phả Hùng Vương bàn rằng: “Xưa Tiền Hoàng đế Thánh tổ
Cõi lớn trời Nam, Hùng Vương Sơn Nguyên, đã gây dựng cơ đồ, thủy tổ Việt Nam, mở
nước Cổ Việt Hùng Thị, mười tám đời thánh vương ngự trị Cõi lớn trời Nam, mở
mang hùng đồ nước Việt, nước biếc một dòng, bắt đầu vận vua sáng đế thánh. Núi
xanh vạn dặm, lập nền đô thành điện báu, mở vật giúp người, thống trị mười lăm
bộ, giữ thế mạnh trước phiên thần, nối tiếp phát huy cõi đất lớn thành Viêm Hồng,
do vua trị nước hơn ba ngàn năm, mãi giúp cho dòng giống vững như bàn đá.
Hiển ứng linh thiêng ở Nghĩa Lĩnh, truyền trăm đời đế vương
ngự ở Việt thành, muôn năm thánh điện núi Hùng, đất tổ trời Nam, gốc nước cơ đồ,
vạn xuân tôn kính, ngàn xưa chảy mãi”.
Đối với những người “ngoại đạo” như tôi, thời đại Hùng Vương
luôn là một điều bí ẩn đến khó hiểu. Ví như, tại sao 18 đời vua Hùng lại kéo
dài hơn 2.600 năm? Tuổi thọ trung bình mỗi đời vua Hùng vậy có quá lạ không?
Khúc mắc này cũng được sư thầy Tâm Hiệp giải đáp bằng những
thông tin từ bản ngọc phả Hùng Vương mới phát hiện. Theo đúng nguyên bản của
Nam Việt Hùng Vương ngọc phả vĩnh truyền tự điển, 18 đời Hùng Vương không phải
là 18 vị vua. Mỗi một đời Hùng Vương là một triều đại kéo dài. Mỗi triều đại
mang cùng một tên hiệu có thể có 1 hoặc nhiều vị vua. Ngọc phả gọi là 18 chi
như sau:
Đế Minh thống trị vạn bang chư hầu thiên hạ
1.Kinh Dương Vương - chi Càn
2.Hùng Hiền Vương - chi Khảm
3.Hùng Quốc Vương - chi Cấn
4.Hùng Hy Vương - chi Chấn
5.Hùng Hi Vương - chi Tốn
6.Hùng Diệp Vương - chi Ly
7.Hùng Huy Vương - chi Khôn
8.Hùng Ninh Vương - chi Đoài
9.Hùng Chiêu Vương - chi Giáp
10.Hùng Uy Vương - chi Ất
11.Hùng Trinh Vương - chi Bính
12.Hùng Võ Vương - chi Đinh
13.Hùng Việt Vương - chi Mậu
14.Hùng Định Vương - chi Kỷ
15.Hùng Triều Vương - chi Canh
16.Hùng Tạo Vương - chi Tân
17.Hùng Nghị Vương - chi Nhâm
18.Hùng Duệ Vương - chi Quý
Ngọc phả Hùng Vương ghi rõ: “Từ đầu tính nước họ Hùng 18
nhánh truyền ấn phù quốc gia, 180 đời đế vương lên ngôi, nhất thống núi sông,
xe sách trị nước, kiến dựng 120 điện thành. Cộng các năm trị vì, 18 đời thánh
vương di truyền, thánh tử thần tôn, triều đại đế vương, hưởng ngôi cộng là
2.655 năm, thọ 8.618 năm, sinh 986 chi hoàng tôn công chúa, sinh cháu chắt cộng
là 14.370 người, trị ở nước Nam, đầu núi góc biển, vạn thế trường tồn, mãi mãi
không ngừng”.
Như vậy, thời đại Hùng Vương có tới 180 vị đế vương, kéo dài
2.655 năm. Tính ra trung bình mỗi vị vua Hùng trị vì khoảng 15 năm, thọ khoảng
48 tuổi. Đây là những con số hoàn toàn rất thực tế.
Còn nhiều điều nữa được ẩn chứa qua từng trang ngọc phả.
3. Nhiều người, trong đó có cả những học giả và nhà nghiên cứu
cho rằng, ngọc phả là hoang đường. Sở dĩ có sự đánh giá như vật là do bởi chính
chúng ta đọc tự điển của cha ông với một thái độ thờ ơ, nghi ngờ. Chúng ta chưa
có một thái độ đúng đắn để đi sâu tìm hiểu di sản của tổ tiên để lại có ý nghĩa
gì; không muốn biết thông điệp của cha ông gửi gắm qua từng trang sách quý. Như
những trang ngọc phả, bao đời nay vẫn được các thế hệ ông cha truyền dạy phải
lưu giữ trân trọng và đó chính là cuốn ngọc phả được thờ như một quốc bảo linh
thiêng của dân tộc.
Ngọc phả chính là “chìa khóa” về nguồn cội, là cuốn Thiên
thư giúp phân định được không gian, thời gian và con người Việt ở thời xa xưa
nhất. Đây là một báu vật đúng như nó được ghi:
“Cho nên quốc triều mới tiến hành soạn sách Nam Thiên bảo lục,
để mãi ban cho hậu thế, con cháu dòng dõi lưu truyền muôn đời. Chỉ truyền cho
người hiền, không truyền cho người thiếu phép tắc. Sự tích này không thể đem
cho người ngoài”.
Xin thành tâm thắp một nén hương dâng lên Cửu trùng thiên điện
ở núi Hùng, đọc lại những dòng ngọc phả về thời kỳ dựng nước, ngâm lên câu đối
trên chính điện đền Trung:
Thiên thư định phận, chính thống triệu Minh đô, Bách Việt
sơn hà duy hữu tổ
Quang nhạc hiệp linh, cố cung thành tụy miếu, Tam Giang khâm
đái thượng triều tôn.
Nghĩa là:
Sách trời định phân, chính thống dựng Minh đô, núi sông Bách
Việt duy có tổ
Núi tỏa linh thiêng, cung cũ lập miếu đền, một dải Tam Giang
hướng về nguồn.
MINH THI