Con đường quan trọng từ khu vực Đồn Thủy chạy qua Tràng Tiền (bao gồm cả Hàng Khay ngày nay) - Tràng Thi ra Cửa Nam
vào Thành được cải tạo mở rộng, nhất là Tràng Tiền. Hai bên đường dần
mọc lên những ngôi nhà xây thay cho nhà lá. Cuối năm 1885, Tràng Tiền là
phố đầu tiên được lát vỉa hè và cũng là phố đầu tiên trồng hàng phượng
hai bên mở đầu cho việc trồng cây trên hè phố sau đó.
Hệ thống cây xanh trong công viên Bách Thảo (Hà Nội). Ảnh: Minh Nguyễn
Hai hàng phượng trồng trên hè phố Tràng Tiền lớn nhanh và hoa nở rực vào
mùa hè tạo cảm giác thích thú cho nhiều người Việt Nam thì người Pháp
sống ở phố này bắt đầu sinh sự. Họ kêu lên tòa đốc lý là cành và thân
cây đã che lấp cửa hàng khiến họ không buôn bán được, họ cũng la lối
những con ve sầu bám trên cây phượng kêu rầm rĩ vào mùa hè làm họ không
thể ngủ được. Rồi họ cho rằng phượng là nơi trú ngụ của muỗi, nguyên
nhân gây ra bệnh sốt rét cho người Châu Âu, thế là chính quyền thành phố
ra lệnh chặt 2 hàng phượng.
Vậy trước đó Hà Nội có cây xanh trên phố không? Thời kỳ này diện tích Hà
Nội rất nhỏ, các phố buôn bán chật chội, cửa hàng chen chúc nhau, không
có vỉa hè, không có rãnh thoát nước nên lầy lội vào mùa mưa. Không
những vậy, nhiều hồ ao còn nằm lẫn trong khu dân cư và cây cối do dân
trồng chỉ có ở những chỗ đất rộng, xa phố buôn bán. Nhiều cây nhất là
các thôn Cựu Lâu, Phúc Tô... ở phía tây Hồ Gươm với những cây bản địa
quen thuộc như: đa, bàng, phượng, mít... Cây cao tuổi nhất được cho là
cây đa (nay vẫn còn nằm trong khuôn viên của Báo Nhân Dân).
Khi Tiến sỹ Vũ Tông Phan lập Trường Hồ Đình năm 1835 thì cây đa này đã
vững chắc, nghĩa là nó đã được trồng trước đó. Kiến trúc sư Tạ Mỹ Duật
lúc còn sống đã xếp cây đa này vào loại "số 1 Đông Dương". Một cây đa
khác cũng có tuổi đời không thua kém cây đa "số 1 Đông Dương" là cây đa ở
đền Ngọc Sơn.
Trận bão năm 1977 đã làm cây đa này bật rễ. Ngay sau đó
người ta đã dùng tời kéo thân nó đứng dậy rồi chống cột và cho đến hôm
nay, cây đa vẫn sống và tỏa bóng. Con đường quanh Hồ Gươm khánh thành
vào đầu năm 1893 đã lấy mất sân đền Bà Kiệu nhưng người ta vẫn để lại
cây đa.
Một cây đa nữa cũng vào hàng cao niên là cây đa ở 87 phố Hàng
Gai. Nhà nghiên cứu Nguyễn Vinh Phúc cho rằng đó là cây đa Cô Quyền vì
cạnh cây đa có quán nước của một người đàn bà tên Quyền. Trong cuốn "Nhớ
gì ghi nấy" nhà văn Nguyễn Công Hoan thì nói đó là cây đa Cu Quyền vì
Quyền chuyên làm thuê, tối ngủ dưới gốc cây. Còn nhà nghiên cứu Nguyễn
Văn Uẩn lại gọi là cây đa Cửa Quyền bởi cây đa này gần Phủ Doãn (chỗ dân
nghỉ ngơi khi vào cửa quan). Đối diện với siêu thị Intimex có một cây
muỗm, khi người ta làm đường quanh hồ, Công sứ Bonnal đã cho giữ lại cây
này.
Khi Hà Nội trở thành thuộc địa của Pháp năm 1888 thì kế hoạch mở
rộng và xây dựng thành phố theo kiểu Châu Âu được triển khai nhanh hơn.
Để đáp ứng đủ giống cây xanh trồng trên phố, trong năm 1888, một số nhà
thực vật người Pháp đã thành lập vườn Bách thảo để trồng cây và nuôi
chim thú ngay sát làng Ngọc Hà.
Trong bản đồ người Pháp vẽ năm 1890 ghi
là Jardin d'essal (Vườn thí nghiệm thực vật). Khi mới hình thành, vườn
có diện tích 33ha, đất đai không bằng phẳng, có gò núi do dồn đất lên
cao, có ao hồ. Nhiều cây cối như: tre, chuối, các cây leo được chặt phá
để mở lối đi lại. Vườn được chia làm 2 khu: Khu cao làm vườn Bách Thảo,
khu thấp làm vườn ươm (sau tách riêng thành vườn ươm Laforge ở đầu phố
Thụy Khuê). Laforge ươm các giống cây nhập từ Châu Phi, Châu Mỹ và Châu
Âu.
Khi cây ở đây lớn lên tỏa bóng mát thì một số học sinh Trường Bưởi
(Chu Văn An hiện nay) nhà ở xa, xe đạp không có, buổi trưa thường vào
đây ngồi dưới bóng cây ôn bài. Còn những năm 1960, Bách thảo là nơi học
về các loài thảo mộc của sinh viên trường dược.
Năm 1902, Hà Nội trở thành trung tâm của Đông Dương thì người ta càng
chú ý đến bộ mặt đô thị. Ở khu vực phố cổ, chính quyền ra quyết định cải
tạo đường, làm vỉa hè nhưng vì chiều ngang quá hẹp nên không thể trồng
cây. Khu phố mới (hay còn gọi là khu phố Pháp) ở phía nam Hồ Gươm hình
thành vào đầu thế kỷ XX, chính quyền cho đánh các cây đã ươm ở Laforge
ra trồng trên hè các phố, công thự.
Để có bóng mát quanh năm và công
nhân vệ sinh không vất vả vì lá rụng hết trong một thời gian ngắn, các
nhà thực vật đã chọn những giống cây mà lá rụng rải rác và chỉ là lá
già. Cùng với tiêu chí đó, họ cũng trồng mỗi phố một loài cây để tạo ra
kiến trúc phong cảnh, phố Phan Đình Phùng chủ yếu là sấu, Lý Thường Kiệt
chủ yếu là cơm nguội và quả này có sức hút với trẻ em vì nó dùng để
nhồi vào súng phốc bắn rất đau.
Tuy nhiên do cơm nguội hay bị sâu ruỗng
trong thân nên phố này nay người ta trồng thay bằng phượng. Đoạn đầu phố
Lò Đúc là cây sao đen, những năm 1960, cứ chiều đến hàng nghìn con cò
đỗ trên ngọn cây và chúng ỉa làm hè phố trắng phân cò nên nhiều người
gọi Lò Đúc là "bang cò ỉa". Trên phố Nguyễn Du thì trồng hoa sữa...
Riêng với xà cừ, do rễ giống cây này ăn ngang và không chịu được nước
nên họ chỉ trồng ở khu vực đất cao.
Cùng với trồng cây trên phố, chính quyền cũng cho trồng các loài cây có
thân thẳng như cọ Châu Phi hay các cây có hoa sặc sỡ ở vườn hoa 2 bên
Nhà hát Lớn, trước Ngân hàng Đông Dương, vườn hoa Canh nông... Đặc biệt
quanh khu vực Hồ Gươm, ngoài các cây nhập còn có rất nhiều giống cây bản
địa như: Sưa, lộc vừng, phượng... Phía đông Hồ Gươm từng có 2 cây gạo,
một trước đền Ngọc Sơn và một ở mép hồ trước tượng đài Lý Công Uẩn bây
giờ.
Đặc điểm sinh học của cây gạo là vào mùa xuân, lá rụng hết và đến
tháng 3, trên cành khẳng khiu hoa bắt đầu nở đỏ ối, vào những ngày có
sương mỏng, hoa gạo đỏ mờ bên hồ giống như bức tranh lụa. Tuy nhiên cây
gạo không có tác dụng che mát và cành giòn nên rất nguy hiểm trong mùa
mưa bão.
Vậy tại sao người ta vẫn trồng? Trong cuốn sách của một giáo
viên người Pháp từng dạy ở Trường Trung học bảo hộ viết rằng: "Tôi ngạc
nhiên tại sao quanh Hồ Gươm lại có 2 cây gạo, vì theo tôi hiểu biết thì
giống cây này thường được trồng ở đầu làng hay cánh đồng tại các tỉnh
đồng bằng Bắc Kỳ với ý nghĩa là nơi trú ngụ cho ma quỷ để nó tránh quấy
nhiễu dân làng". Trong dân gian Việt Nam có câu "Thần cây đa, ma cây
gạo", có lẽ chính quyền muốn trồng 2 cây gạo để ma quỷ khỏi quấy nhiễu
tòa đốc lý? (nay là UBND thành phố).
Năm 1969, vì quanh Hồ Gươm chưa
kè nên trận bão lớn năm này làm nhiều cây ven hồ bị đổ. Năm 1997, một
trận bão lớn tràn qua Hà Nội làm đổ tới gần 5.000 cây lớn nhỏ các loại.
Theo thống kê, khu vực nội thành Hà Nội (lúc chưa hợp nhất năm 2008) có
khoảng 700 loài trong đó có 148 loài cây bóng mát, 62 loài cây cỏ, 76
loài cây ăn quả và 217 loài cây cảnh với tổng số cây vào khoảng 30.000
cây to nhỏ.
Thời bao cấp, trẻ con bị coi là hư hỏng nếu nhảy tàu điện và
trèo cây (hái sấu và dính ve). Trong quá trình phát triển, các công
trình dân sinh mọc lên trên khu vực nội đô và người ta đã chặt phá khá
nhiều cây to. Khi khánh thành tòa nhà Vincom (cuối phố Bà Triệu) năm
2003, người ta đã xin được giấy phép đốn hàng chục cây xà cừ 60, 70 năm
tuổi. Không ít nhà mặt phố đã giết cây chắn trước cửa hàng của họ bằng
cách đổ dầu nhờn hay bóc lớp vỏ dưới gốc cây. Có những giống cây quý
hiếm như cây chuông đỏ duy nhất của Hà Nội (ở phố Hàng Trống) cũng bị
chặt hạ.
Hà Nội từng đứng đầu cả nước khi tính diện tích cây xanh tính theo đầu
người là 9,5 m2/người .Tuy nhiên vị trí đó nay không do Hà Nội nắm giữ
và tại các khu đô thị mới, người ta trồng cây cốt cho có mà không hề có
tính toán đến kiến trúc phong cảnh.