Vua Lý Thái Tổ (chữ Hán: 李太祖; 8 tháng 3 năm 974 – 31 tháng 3 năm 1028), tên thật là Lý Công Uẩn (李公蘊), vị hoàng đế sáng lập nhà Lý trong lịch sử Việt Nam, trị vì từ năm 1009 đến khi qua đời vào năm 1028.
Xuất thân là một võ quan cao cấp dưới triều nhà Tiền Lê, năm
1009, nhân khi vị vua cuối cùng của nhà Tiền Lê là Lê Long Đĩnh qua đời, con
trai còn nhỏ, Lý Công Uẩn được lực lượng của Đào Cam Mộc và thiền sư Vạn Hạnh
tôn làm Hoàng đế.
Trong thời kỳ trị vì của mình, ông dành nhiều thời gian để
đánh dẹp các nơi phản loạn, vì cơ bản nước Đại Cồ Việt vẫn chưa thu phục được
lòng tin của các tộc người vùng biên cương.
Triều đình trung ương dần được củng cố, các thế lực phiến
quân bị đánh dẹp, kinh đô được dời từ Hoa Lư về thành Đại La vào tháng 7 năm
1010, và thành này được đổi tên thành Thăng Long, mở đầu cho sự phát triển lâu
dài của nhà Lý tồn tại hơn 200 năm.
Xuất thân
Sách Đại Việt sử lược và Đại Việt sử ký toàn thư đều chép Lý
Công Uẩn người ở Cổ Pháp, Bắc Giang (nay thuộc huyện Từ Sơn, Bắc Ninh), mẹ họ
Phạm. Tuy nhiên, tên cha ông không được ghi chép rõ, mà chỉ biết là sau khi ông
lên ngôi đã truy tôn cha mình tước Hiển Khánh vương. Sách Đại Việt sử lược cũng
chép ông có một người anh trai (sau được phong Vũ Uy vương) và một người em
(sau phong Thánh Dực vương). Sách Đại Việt sử ký toàn thư cũng chép anh ông sau
được phong làm Vũ Uy vương và một người chú (được phong Vũ Đạo vương).
Lúc 3 tuổi, thân mẫu Lý Công Uẩn ẵm vua đến nhà Lý Khánh
Văn, Khánh Văn bèn nhận làm con nuôi, từ nhỏ đã thông minh, vẻ người tuấn tú
khác thường. Lúc còn nhỏ đi học, nhà sư ở chùa Lục Tổ là Vạn Hạnh thấy, khen rằng:
Đứa bé này không phải người thường, sau này lớn lên ắt có thể giải nguy gỡ rối,
làm bậc minh chủ trong thiên hạ. Lớn lên, không chăm việc sản nghiệp, chỉ học
kinh sử qua loa, khảng khái có chí lớn.
Tướng nhà Tiền Lê
Lý Công Uẩn lớn lên thời vua Lê Đại Hành (Lê Hoàn), ông theo
giúp hoàng tử Lê Long Việt. Năm 1005, vua Lê Hoàn mất, các con tranh giành ngôi
vua. Năm 1006, Lê Long Việt giành được ngôi vua, trở thành vua Lê Trung Tông.
Nhưng chỉ được 3 ngày Trung Tông bị em là Lê Long Đĩnh giết hại giành ngôi. Lúc
đó các quan đều sợ hãi bỏ chạy, chỉ có Lý Công Uẩn đến ôm xác Trung Tông khóc.
Lê Long Đĩnh không những không trị tội mà khen Lý Công Uẩn
là người trung nghĩa, tiếp tục trọng dụng ông vào chức cho làm Tứ sương quân
phó chỉ huy sứ, rồi sau đó thăng đến chức Tả thân vệ điện tiền chỉ huy sứ.
Theo "Ngọc phả các vua triều Lê" ở các di tích cố
đô Hoa Lư - Ninh Bình, Lý Công Uẩn hàng năm theo thiền sư Vạn Hạnh vào hầu vua
Lê Hoàn ở thành Hoa Lư, Công Uẩn được vua yêu, cho ở lại kinh thành học tập
quân sự. Vua Lê Hoàn lại gả con gái cả là công chúa Lê Thị Phất Ngân, sinh ra
Lý Phật Mã và đặc phong cho Công Uẩn làm Điện tiền cận vệ ở thành Hoa Lư. Dần dần,
Công Uẩn thăng lên chức Điện tiền chỉ huy sứ. Chức ấy chỉ dành cho hoàng tộc hoặc
quốc thích mới được trao. Chính nhờ vậy mà về sau, Lý Công Uẩn đã đem ngôi vua
về cho họ Lý.
Lên ngôi hoàng đế
Thời vua Lê Long Đĩnh còn tại vị, hương Diên Uẩn, châu Cổ
Pháp, có cây gạo bị sét đánh, có chữ trên cây. Vị sư Vạn Hạnh mới bảo Lý Công Uẩn
rằng: Mới rồi tôi thấy chữ bùa sấm kỳ lạ, biết họ Lý cường thịnh, tất dấy lên
cơ nghiệp. Nay xem trong thiên hạ người họ Lý rất nhiều, nhưng không ai bằng
Thân vệ là người khoan thứ nhân từ được lòng dân, lại đang nắm binh giữ quyền
trong tay, đứng đầu muôn dân chẳng phải Thân vệ thì còn ai đương nỗi nữa. Tôi
đã hơn 70 tuổi rồi, mong được thư thả hãy chết, để xem đức hóa của ông như thế
nào, thực là cái may nghìn năm có một. Lý Công Uẩn sợ câu nói ấy tiết lộ, bảo
người anh đem Vạn Hạnh giấu ở Tiêu Sơn.
Có lần Ngọa Triều ăn quả khế lại thấy hột mận, mới tin lời sấm
ngữ, ngầm tìm người họ Lý giết đi, nhưng Lý Công Uẩn vẫn không bị hại. Vua Lê
Long Đĩnh chết năm 1009, vua nối còn bé, Lý Công Uẩn cùng với Hữu điện tiền chỉ
huy sứ là Nguyễn Đê mỗi người được đem 500 quân tùy long vào làm túc vệ.
Khi ấy Chi hậu là Đào Cam Mộc dò biết Công Uẩn có muốn nhận
việc truyền ngôi, mới nhân lúc vắng nói khích với Lý Công Uẩn về việc tiếm
ngôi. Công Uẩn trong lòng thích lời nói đó nhưng còn ngờ Cam Mộc có mưu khác, mới
giả cách mắng.
Cam Mộc thong thả bảo Công Uẩn rằng:Tôi thấy thiên thời nhân
sự như thế, cho nên mới dám phát ngôn. Nay ông lại muốn cáo giác tôi thì tôi
không phải là người sợ chết. Lý Công Uẩn nói: Tôi đâu nở cáo giác ông, chỉ sợ lời
nói tiết lộ thì chết ráo, nên răng ông đó thôi.
Tượng đài Lý Thái Tổ tại trung tâm thành phố Bắc Ninh
Hôm sau Đào Cam Mộc lại thuyết phục Lý Công Uẩn việc tiếm
ngôi, Đào Cam Mộc bàn với Thái hậu, phò lập Lý Công Uẩn lên làm vua. Lý Công Uẩn
lên ngôi hoàng đế tháng 11, ngày Quý Sửu, năm Kỷ Dậu10 (tức 21 tháng 11 năm
1009), đặt niên hiệu là Thuận Thiên, nghĩa là "theo ý trời".
Vua sắc phong cha là Hiển Khánh Vương, mẹ là Minh Đức Thái hậu,
chú là Vũ Đạo Vương, anh ruột là Vũ Uy Vương, em ruột là Dực Thánh Vương. Vua lập
sáu vương hậu, con trưởng là Lý Phật Mã được phong Khai Thiên Vương, lập làm
Thái tử.
Các con trai khác của ông cũng được phong vương. Đồng thời,
con gái lớn của ông là An Quốc công chúa Lý Thiềm Hoa được gả cho Đào Cam Mộc,
Đào Cam Mộc cũng được phong Nghĩa Tín Hầu, còn những người khác vẫn giữ chức
cũ. Một người con gái khác là Lĩnh Nam công chúa Lý Bảo Hòa được gả cho động chủ
Giáp Thừa Quý.
Trị vì thiên hạ
Dời đô về Thăng Long
Cố đô Hoa Lư, nơi núi non hiểm trở
Thành Hoa Lư vốn là một kinh đô nhỏ của triều Đinh, Tiền Lê
tại một thung lũng chật hẹp nhưng dễ phòng thủ phía nam vùng thượng du của đồng
bằng sông Hồng, Việt Nam.
Lúc lên ngôi, vua Lý Thái Tổ cho rằng Hoa Lư thành thì hẹp,
đất thì thấp, muốn dời đô về Đại La (nay là Hà Nội), tức thành Tống Bình đời Đường,
nơi mà Cao Biền sau khi đuổi quân Nam Chiếu đã xây dựng lại phủ trị của An Nam
đô hộ phủ. Nhà vua chiếu rằng:
“Xưa kia nhà Thương đến vua Bàn Canh đã năm lần thiên
đô, nhà Chu đến vua Thành Vương đã ba lần thiên đô, không phải là theo ý riêng
một mình, là nghĩ đến kế muôn năm về sau. Nhà Đinh và Lê không theo lối cũ của
Thương, Chu, cứ để kinh đô ở mãi nơi này, trẫm rất đau lòng. Duy có thành Đại
La ở giữa khu vực của trời đất, có cái thế long, hổ vững bền, địa thế rộng và bằng
phẳng, đất thì cao mà sáng sủa, rõ là khu vực phồn thịnh. Đã xét khắp đất Việt,
chỉ có nơi ấy là thắng địa, là nơi đô hội thật là kinh đô của muôn đời sau. ”
— Chiếu dời đô
Các quan cùng đồng tình với ông cho rằng đó là kế lâu dài
cho thiên hạ, lập nên cơ nghiệp lớn và làm cho nhân dân được giàu thịnh14
Tháng 7 năm 1010 (tức năm Thuận Thiên thứ nhất) thì khởi sự
dời đô. Khi thuyền mới đến đậu ở dưới thành, thấy có con rồng vàng hiện ra, nhân
thế đặt tên là Thăng Long, liền lập nhiều cung điện, cộng sở, xây thành lũy, sửa
sang phủ khố; thăng châu Cổ Pháp làm phủ Thiên Đức, Bắc Giang gọi là Thiên Đức
Giang, thành Hoa Lư gọi là phủ Tràng An, trong phủ Thiên Đức lập ra tám ngôi
chùa, đều có lập bia ghi chép công đức.
Chính trị - Đổi mới quản lý đất nước
Bản đồ Đại Việt thời nhà Lý
Thời vua Lý Thái Tổ, Đại Tống và Đại Việt có mối quan hệ hòa
bình. Khi Lý Thái Tổ lên ngôi, ông sai Lương Nhậm Văn và Lê Tái Nghiêm sang nước
Tống để kết hảo, vua Tống năm 1010 phong làm Giao Chỉ quận vương lĩnh Tĩnh Hải
quân tiết độ sứ, sau lại gia phong làm Nam Bình vương vào năm 1017 (thời Tống
Chân Tông). Các vương quốc láng giềng như Chiêm Thành và Chân Lạp đều sang triều
cống, cho nên việc bang giao thời bấy giờ được yên trị.
Năm 1020, vua Thái Tổ sai Thái tử là Phật Mã đem quân đánh Chiêm
Thành, thắng được người Chiêm.
Vua Lý Thái Tổ đổi phép cũ của nhà Tiền Lê; chia nước ra làm
24 lộ, chia nước làm hai phần là kinh và trại, gọi Hoan Châu và Ái Châu là trại;
xứ từ Thanh Hóa trở ra là kinh.
Sách Cương mục và Toàn thư chỉ ghi tên 12 lộ là: Thiên Trường
lộ, Quốc Oai lộ, Hải Đông lộ, Kiến Xương, Khoái lộ, Hoàng Giang lộ, Long Hưng lộ,
Bắc Giang lộ, Trường Yên lộ, Hồng lộ, Thanh Hóa lộ, Diễn Châu lộ. Theo sách
Lãnh Nam ngoại đáp, Đại Việt thời Lý chia làm 4 phủ, 13 châu và 3 trại. Phủ là
Phủ Đô hộ, phủ Đại Thông, phủ Thanh Hóa, phủ Phú Lương; châu là châu Vĩnh An,
châu Vĩnh Thái, châu Vạn Xuân, châu Phong Đạo, châu Thái Bình, châu Thanh Hóa,
châu Nghệ An, châu Già Phong, châu Trà Lô, châu Yên Phong, châu Tô, châu Mậu,
châu Lạng; trại là trại Hòa Ninh, trại Đại Bàn, trại Tân Yên.
Quan chế nhà Lý kế thừa quan chế nhà Tiền Lê, văn võ có 9 phẩm,
lấy 3 chức thái: thái sư, thái phó, thái bảo; 3 chức thiếu: thiếu sư, thiếu
phó, thiểu bảo; cùng thái úy, thiếu úy, và nội ngoại hành điện đô tri sự, kiểm
hiệu bình chương sự làm chức trọng yếu của triều đình.
Ngoài quan ngoài triều đình có các chức tri phủ và phán phủ
cai trị một phủ và chức tri châu cai trị một châu. Ngoài ra có những châu bậc
dưới mà người đứng đầu là thủ lĩnh.
Năm 1013, triều đình định ra 6 hạng thuế là: thuế ruộng, đầm,
ao; thuế đất trồng dâu và bãi phù sa; thuế sản vật ở núi; thuế mắm muối đi quan
Ải quan; thuế sừng tê giác, ngà voi và hương ở trên mạn núi xuống; thuế tre gỗ
hoa quả.
Lúc mới lên ngôi, nhà vua miễn thuế cho nhân dân trong vòng
3 năm. Theo Ngô Thì Sĩ, nhà Lý cốt chăm nghề nông cho nước giàu, trong 6 thứ
thuế chỉ thu 4 thứ, 2 hạng khoan thu.19
Quân sự- Chinh phạt các thế lực chống đối
Tháng 2 năm 1011 (năm Thuận Thiên thứ hai), vua Lý Thái Tổ
mang sáu quân đi phạt quân Cử Long ở Ái Châu. Quân Cử Long thất bại, bộ lạc bị
đốt và người cầm đầu bị bắt và giải về. Tháng 10 năm 1013, ông thân chinh đánh
quân Man ở châu Vị Long và cũng giành chiến thắng.
Năm 1012, vua Lý Thái Tổ bình định vùng đất Diễn Châu, về đến
Vũng Biện, gió sấm dữ dội". Thấy vậy, ông đốt hương và khấn trời:
"Tôi là người ít đức, lạm ở trên dân, nơm nớp lo sợ như
sắp sa xuống vực sâu, không dám cậy binh uy mà đi đánh dẹp càn bậy. Chỉ vì người
Diễn Châu không theo giáo hóa, ngu bạo làm càn, tàn ngược chúng dân, tội ác chồng
chất, đến nay không thể dung tha không đánh. Còn như trong khi đánh nhau, hoặc
giết oan kẻ trung hiếu, hoặc hại lầm kẻ hiền lương, đến nỗi hoàng thiên nổi giận
phải tỏ cho biết lỗi lầm, dẫu gặp tổn hại cũng không dám oán trách. Đến như sáu
quân thì tội lỗi có thể dung thứ, xin lòng trời soi xét". Sau khi khấn,
gió sấm không còn dữ dội nữa và trở nên yên lặng.
Năm ấy người Man sang quá cột đồng do Mã Viện dựng làm biên
giới giữa nước Tống và Đại Việt, đến bến Kim Hoa và châu Vị Long để buôn bán.
Lý Thái Tổ sai người bắt được người Man và hơn 1 vạn con ngựa.
Mùa đông, tháng 10, năm 1013 châu Vị Long làm phản, hùa theo
người Man Nam Chiếu. Vua Lý Thái Tổ mang quân đánh, thủ lĩnh là Hà Án Tuấn sợ,
đem đồ đảng trốn vào rừng núi.
Năm 1014, được lệnh của Lý Thái Tổ, Dực Thánh Vương đánh dẹp
quân Man (Đại Lý). Theo Đại Việt Sử Lược, ở Lộ Kim Hoa, quân của Dự Thánh Vương
đánh bại tướng Man là Đỗ Trương Huệ, chém vạn đầu giặc, bắt được quân sĩ và ngựa
nhiều vô số. Ly Châu dâng con Kỳ Lân. Đổi phủ Ứng Thiên làm Nam Kinh. Chân Lạp
sang triều cống.
Tháng 12 năm Canh Thân (năm 1020 Dương lịch), Lý Thái Tổ sai
Khai Thiên Vương Lý Phật Mã và Đào Thạc Phụ đem quân đi đánh Chiêm Thành ở trại
Bố Chính, thẳng đến núi Long Tỵ (nay thuộc huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình),
chém được tướng Chiêm là Bố Linh tại trận, người Chiêm chết đến quá nửa.
Năm 1022, thổ dân Đại Nguyên Lịch - một sắc dân Mán cư trú
giữa trại Như Hồng và trấn Triều Dương (Đại Tống) - sang đánh phá biên ải Việt-Tống.
Vua Lý Thái Tổ ra lệnh cho Dực Thánh Vương đánh dẹp Đại Nguyên Lịch, quân đánh
đến châu Như Hồng trong đất Tống, đốt kho tàng, bắt nhiều dân và gia súc rồi
kéo về. Sử gia Trung Quốc Lê Tắc (thời Nguyên) đã thuật lại sự việt này trong
sách An Nam chí lược rằng:
"Tháng 12, Chuyển Vận Sứ Quảng Tây Cao Huệ Liên dâng
thơ nói Giao Châu vào cướp trại Như Hồng thuộc châu Khâm, bắt người và súc vật
rất nhiều. Vua [Tống Chân Tông] xuống chiếu khiến Huệ Liên tư điệp văn cho Giao
Châu và sai sứ theo đòi lại. Nguyên trước đây có dân Mường là Trương Phố, lánh
tội chạy đến đầu ngụ, quan cai trị Khâm Châu là Mục Trọng vời vào, đi đến nửa
đường lại ngăn không cho vào. Đô Tuần Kiểm Tàng Tự bèn khiến trại Như Hồng khao
đãi trâu rượu. Giao Châu dò biết được việc ấy, bèn nhân đuổi bắt dân Mường,
đánh cướp luôn trại Như Hồng. Vua [Tống Chân Tông] xuống chiếu thư bảo các châu
từ nay không được dụ vời quân mán rợ và khao đãi yến tiệc, đến đỗi sanh sự."
Năm 1024, Lý Thái Tổ sai Thái tử Phật Mã ra quân đánh châu
Phong Luân, còn Khai Quốc Vương thì đánh Châu Đô Kim. Cùng năm đó, nhà vua tu sửa
thành Thăng Long.
Năm 1028, Thái tử lại được lệnh đánh châu Thất Nguyên, Đông
Chinh Vương cũng đi đánh Châu Văn.
Tôn giáo - Phật giáo là quốc đạo
Tượng thờ vua Lý Thái Tổ ở chùa Kiến Sơ, Gia Lâm, Hà Nội
Vua Lý Thái Tổ vì xuất thân từ chùa chiền, nên sau khi lên
ngôi rất hậu đãi giới tăng lữ. Vào năm 1010, sau khi đã dời đô từ Hoa Lư về
Thăng Long, việc đầu tiên ông làm liền xuất ra 2 vạn quan để làm chùa ở phủ
Thiên Đức (tức Cổ Pháp).
Tháng 12 năm Canh Tuất (năm 1010 Dương lịch), vua Lý Thái Tổ
sai sứ sang nhà Tống để thỉnh kinh điển Phật giáo. Tống Thái Tông chấp thuận,
trao cho vua Lý kinh Địa Tạng cùng với chữ ngự bút do chính tay vua Tống viết.
Cùng năm, sau khi củng cố xây dựng Hoàng thành, ông lại chùa
ngự Hưng Thiên và tinh lâu Ngũ Phượng. Ngoài thành về phía nam dựng chùa Thắng
Nghiêm.
Tháng 6 năm Mậu Ngọ (năm 1018 Dương lịch), vua Lý Thái Tổ lại
sai viên ngoại lang Nguyễn Đạo Thanh và Phạm Hạc sang nước Đại Tống thỉnh Tam tạng
kinh đem về để vào kho Đại Hưng.
Tháng 9 năm Giáp Tý (năm 1024 Dương lịch), Thái Tổ sai dựng
chùa Chân Giáo trong nội đô Thăng Long, để hoàng đế lui tới nghe kinh pháp.
Băng hà
Theo Đại Việt sử lược, năm 1028 (tức năm Thuận Thiên thứ
19), sức khỏe Lý Thái Tổ đã không được tốt, thường xuyên đau yếu. Ngày 31 tháng
3 năm ấy, Thái Tổ băng hà ở điện Long An11 , ở ngôi 19 năm, hưởng thọ 54 tuổi.
Khi Lý Thái Tổ vừa qua đời, việc tế táng lại chưa hoàn tất,
thì ba vương gia Vũ Đức vương, Đông Chinh vương và Dực Thánh vương cùng quân sĩ
vây hãm thành, nhằm mục đích cướp ngôi Thái Tử Lý Phật Mã. Thái tử đem quân vào
thành, quyết một trận với 3 vương.
Khi quân của Thái tử và quân các vương đối trận, thì quan Võ
vệ tướng quân Lê Phụng Hiểu rút gươm ra chỉ vào Vũ Đức vương mà bảo rằng:
"Các người dòm ngó ngôi cao, khi dễ tự quân, trên quên ơn Tiên đế, dưới
trái nghĩa tôi con, vậy Phụng Hiểu xin dâng nhát gươm này!". Nói xong chạy
xông vào chém Vũ Đức vương ở trận tiền. Quân các vương trông thấy sợ hãi bỏ chạy
cả. Dực Thánh vương và Đông Chinh vương cũng phải chạy trốn, về sau xin ra
hàng, được tha cả. Thái tử Lý Phật Mã lên nối ngôi, tức là Lý Thái Tông.
Lý Thái Tông kế vị,, táng Lý Công Uẩn ở Thọ Lăng, phủ Thiên
Đức, truy tôn miếu hiệu là Thái Tổ, thụy hiệu là Thần Vũ hoàng đế.
Gia đình:
Cha: Hiển Khánh vương. Mẹ: Minh Đức thái hậu họ Phạm.
Anh em: Vũ Uy vương.Dực Thánh vương. Có sách ghi là con
trai.
Hậu phi: Thái Tổ lập 9 hoàng hậu, trong đó có một số người
được sử ghi danh hiệu là: Trinh Minh hoàng hậu, tên húy là Lê Thị Phất Ngân,
theo dã sử là con của Lê Hoàn, là mẹ của Thái tử Lý Phật Mã. Tá Quốc hoàng hậu.
Lập Nguyên hoàng hậu. Lập Giáo hoàng hậu.
Còn lại không lưu rõ tên họ.
Hậu nhân: 8 hoàng tử, 13 công chúa.
Khai Thiên vương Lý Phật Mã, năm 1009 phong Hoàng thái tử. Mẹ
là Linh Hiển hoàng hậu.
Khai Quốc vương Lý Bồ, phong năm 1013, ở phủ Trường Yên.
Đông Chinh vương Lý Lực, phong năm 1018.
Vũ Đức vương (? - 1028). Khởi đầu loạn Tam vương, bị Lê Phụng
Hiểu chém chết.
Uy Minh vương Lý Nhật Quang, còn có tên Lý Hoảng. Theo Việt
Điện U Linh tập, mẹ là Linh Hiển hoàng hậu.
Công chúa An Quốc, gả cho Đào Cam Mộc.
Tôn vinh và thờ phụng
Lý Thái Tổ và các vị vua nhà Hậu Lý được thờ ở đền Đô tỉnh Bắc
Ninh. Hiện nay, có một ngôi đền thờ riêng ông được xây dựng từ vốn các công
trình 1000 năm Thăng Long do Hà Nội kết hợp với Ninh Bình là Đền Vua Lý Thái Tổ
đặt tại trung tâm khu di tích Cố đô Hoa Lư.
Tại khu vực động Hoa Lư - quê hương của Thái hậu Dương Vân
Nga và cũng là căn cứ ban đầu của Đinh Bộ Lĩnh có di tích đình Viến thờ Vua
Đinh và Thái hậu cũng có bài vị phối thờ Hoàng hậu Lê Thị Phất Ngân và Lý Thái
Tổ với giai thoại hai người từng về thăm viếng nơi này.
Nhiều địa phương lấy tên ông đặt cho các đường phố như: đường
Lý Thái Tổ ở các thành phố Bắc Ninh, Hà Nội, Huế, Ninh Bình, Thái Bình, Vĩnh
Yên, Đà Nẵng, Long Xuyên,... hay đường Lý Công Uẩn ở các thành phố: Lào Cai,
Cao Lãnh, Mỹ Tho, Móng Cái,...
Tại Hà Nội và Bắc Ninh đều có dựng tượng đài vua.
Năm 2004, một tượng
đài Lý Thái Tổ được xây dựng tại trục đường Đinh Tiên Hoàng thuộc khu vực vườn
hoa Chí Linh, Hồ Hoàn Kiếm, Hà Nội theo mẫu của nhà điêu khắc Vi Thị Hoa, bằng
đồng (nặng 14 tấn, cao 3,3 m) thuộc dạng công trình chào mừng kỷ niệm 1.000 năm
Thăng Long - Hà Nội.