Đền Sóc Lang thờ Đức Thánh Phù Đổng Thiên Vương (Thánh Gióng) một trong “tứ bất tử” của tín ngưỡng dân gian Việt Nam, lại có truyền ngôn rằng đền thờ “Mộc Đức tinh quân” trong “Cửu Diệu tinh” Thái Dương hệ
Đền Sóc Lang (từ Lang) nơi thờ phụng Đức Thánh Phù Đổng
Thiên Vương và Mộc Đức tinh quân.
Dân gian truyền ngôn rằng đền Sóc Lang thờ Đức Thánh
Phù Đổng Thiên Vương (Thánh Gióng) một trong “tứ bất tử” của tín ngưỡng dân
gian Việt Nam, lại có truyền ngôn rằng đền thờ “Mộc Đức tinh quân” trong “Cửu
Diệu tinh” Thái Dương hệ nhưng cũng có truyền ngôn khác cho rằng từ Lang thờ một
pho tượng tối cổ được tạo tác bằng khúc gỗ quý (Mộc tinh) từ thượng ngàn trôi về
nghìn năm trước mà hương thơm tỏa ngát một vùng...
Năm 1998, trong chuyến điền dã về Thái Bình, cố Giáo sư Trần
Quốc Vượng, nguyên Chủ nhiệm bộ môn Lịch sử Trường Đại học Khoa học xã hội và
nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội nói với tôi: Thái Bình không hẳn là vùng đất
“sinh sau đẻ muộn” bởi bằng chứng ở đây có đền thờ Thánh Gióng, nơi đó dân gian
gọi là đền Sóc Lang hay từ Lang.
Giáo sư còn đọc cho tôi nghe một câu đối có liên quan đến
ngôi đền này “Uy dương mộc mã, kiện đề ẩn ẩn ngưỡng kiều biên” rồi “cụ” bảo tôi
“cái gọi là ngưỡng kiều biên chính là ranh giới biển và đất liền thuở xưa của
nhà nước Văn Lang đấy”.
Thế nhưng 20 năm sau chuyến điền dã “cơ duyên” đó tôi mới có
dịp tìm về đền Sóc Lang để tìm hiểu tín ngưỡng thờ cúng “tứ bất tử” lâu đời của
người dân vùng Chân Định xưa và nay là thôn Đông Vinh, xã Vũ Vinh, huyện Vũ
Thư.
Lâu nay trong tâm thức người dân đất Việt tín ngưỡng thờ “tứ
bất tử” (Đức Thánh Tản Viên, Thánh Gióng, Chử Đồng Tử và Liễu Hạnh Công chúa)
được coi là “tối linh hiển thánh” vì thế chẳng mấy ai “để tâm giải mã” những hiện
tượng văn hóa liên quan đến bốn vị hiển thánh đặc biệt là Đức Thánh Phù Đổng
Vương (tức Thánh Gióng).
Hồi cố lịch sử quá trình phát triển sản xuất nông nghiệp của
cư dân Lạc Việt (cư ngụ chủ yếu ở vùng trung du Phú Thọ) chuyển từ công cụ đồ
đá mới đến đồ đồng rồi tiếp tục mở rộng sản xuất nông nghiệp khiến đất đai canh
tác không đáp ứng được nên cư dân Lạc Việt phải rời bỏ vùng đồi núi trung du di
chuyển xuống hạ du vùng đồng bằng châu thổ khai phá đất đai trồng cấy lúa nước
nên đồ sắt phát triển và được dùng nhiều.
Cư dân Lạc Việt đi đến đâu thì tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên,
thánh thần cũng để lại dấu ấn đậm nét đến đó và hiển nhiên các vị “anh hùng văn
hóa” trong truyền thuyết thường được gắn với các đại lễ tôn giáo của người Việt.
Ở vùng đồng bằng châu thổ giáp biển như Thái Bình mà có đền thờ Thánh Gióng điều
đó đã khẳng định truyền thuyết Phù Đổng Thiên Vương không những “ăn sâu” trong
tiềm thức người dân đất Việt mà còn ẩn chứa giá trị triết lý nhân sinh sâu sắc
là “gắn bó, cố kết cộng đồng thì sống, chia rẽ, tách biệt thì chết”, đồng thời
giáo dục truyền thống “yêu nước thương nòi” và đại đoàn kết dân tộc cho các thế
hệ tiếp nối.
Truyền thuyết Phù Đổng Thiên Vương gắn với lễ hội Thánh
Gióng đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại năm
2010. Theo gợi ý giải nghĩa của cố Giáo sư Trần Quốc Vượng thì đền Sóc Lang cổ
nghĩa chiết tự chỉ núi Sóc nơi đức thánh Phù Đổng Thiên Vương sau khi đánh tan
giặc Ân đã cởi áo giáp sắt, cưỡi ngựa sắt hóa về trời. Lang là chỉ người anh
hùng thời Hùng Duệ Vương. Bối cảnh lịch sử của nhà nước Văn Lang kể từ Hùng
Vương thứ nhất trị vì còn là nước nhỏ, nghèo nàn đến đời vua Hùng thứ 6 đã trở
thành một quốc gia hưng thịnh nhưng với nhà Ân (Trung Quốc) vẫn phải giữ thế thần
phục.
Đời vua Hùng thứ 6, đức vua vốn là người khoan dung độ lượng
nhưng khẳng khái, cương nghị lại không có con trai nối dõi bèn bỏ lệ triều bắc
cống. Vua nhà Ân tức giận muốn đem quân xuống xâm lược Văn Lang bèn cho sứ giả
đi do thám trước. Sứ giả đến triều đình Văn Lang phán rằng: “Vua nhà Ân muốn đi
tuần thú phương Nam khi nào tới, vua Hùng phải lo cung đón, tiếp đãi thật chu
đáo”.
Nhìn thấu tâm can giặc Ân lăm le muốn cướp nước Văn Lang vua
Hùng bèn cho sứ giả đi tìm người tài trong thiên hạ. Nghe tiếng sứ giả cầu hiền
tài, cậu bé Gióng lúc ấy đã ba tuổi mà không biết nói, biết cười bỗng dưng bật
lên tiếng gọi mẹ và giục mẹ mời sứ giả vào nhà. Gióng nói với sứ giả về tâu với
vua Hùng sắm cho ngựa sắt, áo giáp sắt, gậy sắt. Rồi Gióng ăn khỏe, lớn nhanh
như thổi… Cả làng góp gạo nấu cơm cho Gióng ăn.
Một ngày Gióng từ biệt mẹ, mặc áo giáp sắt, cưỡi ngựa sắt, cầm
gậy sắt đánh tan giặc Ân cướp nước… Tương truyền, phía trước đền Sóc Lang có
hai hồ nước là dấu chân ngựa sắt của Thánh Gióng lúc đuổi giặc ở phía Đông Nam.
Những vết chân ngựa Gióng còn in hằn trên mặt đất làng Đông Vinh mãi mãi in sâu
vào lòng đất, trong lòng người dân đất Việt, tạc ghi trong lịch sử dân tộc như
chứng tích muôn đời không phai về kỳ tích của người anh hùng… Truyền thuyết
Thánh Gióng được hiện thực hóa trong tín ngưỡng thờ “tứ bất tử” ở đền Sóc Lang
khẳng định Thánh Gióng là người anh hùng từ văn hóa đến tâm linh và là anh hùng
“vô hình hữu thanh”.
Gióng là ước mơ khát khao cháy bỏng của người nông dân “chân
lấm bùn” bước ra từ nền văn minh nông nghiệp khi mà mỗi người dân đều là anh
hùng đánh giặc ngoại xâm bảo vệ non sông gấm vóc. Hình ảnh Gióng lớn nhanh “như
thổi” ăn hết “bảy nong cà, ba nong cơm” chính là xuất phát điểm văn minh lúa nước
chỉ có bát cơm và quả cà mà sẵn sàng đập tan giặc ngoại xâm và lớn nhanh là để
đánh giặc cứu nước.
Cứu nước xong Gióng hóa về trời chứ không ở lại để kể công cầu
danh lợi như lẽ thường tình. Thánh Gióng là hình tượng người anh hùng trong
lòng dân và sinh ra ở dân khi có giặc thì đi đánh giặc vô tư vì nghĩa cả. Thánh
Gióng vô hình mà tên tuổi vẫn để muôn đời sau thờ phụng. Theo huyền thoại, tướng
giặc Ân là Thạch Linh rất tàn ác, khi giặc Ân sang cướp nước ta hắn sai người
làm con ngựa gỗ rồi bắt dân ta cắt cỏ cho ngựa gỗ ăn.
Hắn ra điều kiện nếu ngựa gỗ ăn cỏ thì dân ta không bị hắn
chém đầu, nếu ngựa gỗ không ăn cỏ thì người dân nước ta bị chém đầu… Căm hờn lũ
giặc bạo tàn, Gióng ăn cơm của dân làng mà lớn nhanh như thổi rồi giúp vua Hùng
đánh tan giặc Ân. Ngựa gỗ bị quật gãy, đầu một nơi, thân một nẻo, mảnh vỡ văng
khắp nơi. Dấu tích ngựa gỗ vẫn còn lưu truyền trong dân gian đâu đó như đường cổ
ngựa, cánh đồng đầu ngựa, ruộng yên ngựa, ruộng đuôi ngựa…
Liên tưởng tới câu đối tối cổ ở đền vua Rộc khẳng định vùng
Chân Định xưa có bốn ngôi đền thiêng, trong đó có vua Rộc và Sóc Lang, rõ ràng
vế đối thứ hai trong đôi cấu đối đền vua Rộc nhắc đến “ngựa gỗ” của giặc Ân uy
hiếp tinh thần dân lành thì đã có ngay hình bóng người anh hùng (Thánh Gióng)
thấp thoáng chốn biên cương “vó hùng thấp thoáng chốn cầu biên” để bảo vệ non
sông.
Đền Sóc Lang là một thiết chế văn hóa cổ tiêu biểu cho nền
văn minh lúa nước vùng châu thổ Bắc Bộ trên đất Thái Bình, đồng thời thể hiện
khát vọng hòa bình, ấm no, hạnh phúc của người nông dân mong cầu “mưa thuận gió
hòa” mùa màng bội thu và một cuộc sống đoàn kết, gắn bó.
Đền Sóc Lang - Thái Bình trước và sau khi tu bổ