Khu di tích Đền Cao, phường An Lạc, thành phố Chí Linh thờ 5 vị tướng họ Vương có công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Tống năm (981) do Vua Lê Đại Hành (Thập đạo Tướng quân Lê Hoàn) trực tiếp chỉ huy.
Đền Cao thờ người anh cả Vương Đức Minh (Thiên bồng Đại tướng
quân Đại vương); đền Bến Tràng- thờ Đại vương Vương Đức Xuân; đền Bến Cả - thờ
tướng Vương Đức Hồng và Đền Cả-thờ Vương phụ, Vương mẫu cùng 2 tướng Vương Thị
Đào, Vương Thị Liễu và Thành hoàng Dương Tôn Linh...
Chí Linh - Một vùng đất lắng hồn thiêng sông núi.
Đến Chí Linh du khách được chiêm bái một quần thể khu di tích lịch
sử đền Cao đang trầm mặc soi mình bên dòng Nguyệt Giang thơ mộng - một
cảnh quan đặc biệt của Chí Linh.
Dấu ấn lịch sử oanh liệt hào hùng thời Tiền Lê
cùng những chiến công hiển hách của năm vị tướng họ Vương đến nay
còn hiện diện qua những ngôi đền cổ tại vùng đất An Lạc làm nên dấu
thiêng vùng đất Chí Linh.
Từ cầu Thiên trên quốc lộ 37 bắc qua dòng Nguỵêt
Giang đi vào 300m du khách đến với miền đất nhiều sử thoại, đó chính là mảnh
đất An Lạc của thị xã Chí Linh. Diện tích tự nhiên 4km2 nhưng lại có tới 99 quả đồi lớn nhỏ cao từ 15
– 100m. Phía nam có dòng Nguyệt giang êm đềm uốn khúc ôm ấp những cánh đồng phì
nhiêu. An Lạc cũng là nơi có rừng lim nhân tạo duy nhất của tỉnh Hải Dương với
hàng trăm năm tuổi.
Do ở vị trí quân sự trọng yếu, cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp,
động thực vật phong phú, núi non giăng thành, đường thủy bộ xuôi ngược thuận tiện
nên thế kỷ 10 An Lạc đã trở thành một phòng tuyến, một hậu cứ để tấn công kẻ
thù xâm phạm miền Đông Bắc của tổ quốc. Thời kỳ cận hiện đại đây vẫn còn là một
vị trí quân sự có tầm quan trọng chiến lược. Khảo sát và tìm hiểu vùng An lạc
thấy nhiều di tích và truyền thuyết quan hệ đến cuộc kháng chiến chống Tống.
2. Truyền thuyết:
Theo truyền thuyết cha ông ta truyền lại: Vào thời Đinh
ở Nga Sơn phủ Hà Trung tỉnh Thanh Hoá có hai vợ chồng ông Vương Đức
Tĩnh và bà Đào Thị Thanh sống với nhau đã lâu nhưng chưa có con. Họ
quyết đi tìm cuộc sống mới.
Khi đến Dược Đậu Trang ông bà thấy đây là một vùng
đất bình yên, thuần hậu, ông bà đã ở lại sinh cơ lập. Được dân làng
yêu quý giúp đỡ khoảng một năm sau gia đình ông bà làm ăn khá giả và
sinh được 5 người con là Vương Thị Đào, Vương Thị Liễu, Vương Đức Minh,
Vương Đức Xuân, Vương Đức Hồng.
Năm người con lớn lên
học hành binh thư chữ nghĩa rất tinh thông. Một hôm hai ông bà về quê hương bản quán,
đến bến đò Thần Phù - Thanh Hoá, không may gặp bão đắm thuyền và mất tại đó vào
ngày mồng 6-3.
Năm 981 quân Tống xâm lấn bờ cõi nước ta. Nhà vua
truyền hịch đi khắp nơi tìm người hiền tài ra phò vua giúp nước. Lúc
này năm người con họ Vương đang có tang cha mẹ nên không dám về triều ứng
thí.
Đến khi nhà Vua đem quân đi đánh giặc qua Dược Đậu
Trang (An Lạc hiện nay) nhận thấy dân cư ở đây thuần hậu, địa thế hiểm
yếu, nhà Vua liền cho lập đồn trại đóng quân tại đây. Hàng ngày thấy
những người con họ Vương đi ngang qua cửa doanh đồn, Vua nhận thấy họ đều
là người tài năng liền cho thử tài và chiêu dụng.
Nhà Vua liền phong chức cho ba anh em trai là Quyền
chưởng Trung hoa tể đại tướng và phong cho hai chị em gái là Mẫu nghi
chí tôn thiên hạ. Sau khi nhận tước phong các ngài cùng xin phép nhà
Vua cho được thay thánh giá cầm quân ra đánh giặc.
Khi ấy 5 vị tướng cầm quân tiến đánh theo đường bộ
tiến quân, giáp chiến một trận cực kì ác liệt. Quân giặc thua to, bỏ
cả đồn tháo chạy về nước. Bờ cõi Đại Việt được giữ vững. Ngay
ngày hôm đó Vua cho mở tiệc khao thưởng quân sĩ và nhân dân. Sau đó nhà
vua dẫn quân trở về kinh đô, còn 5 ngai xin ở lại mãn tang cha mẹ sẽ về
triều bái yết.
Không ngờ ý trời linh hoá, đêm hôm đó trời đất tối
tăm mờ mịt, mưa gió ầm ầm, 5 ngài đều thăng hoá về trời (đêm 24
tháng giêng). Sáng hôm sau trời đất lại trong sáng trở lại. Nhân dân
kéo đến xem thì đã thấy mối đất đùn thành những ngôi mộ lớn rồi.
Nhân dân liền lập biểu dâng lên triều đình. Nhà vua nghe tin vô cùng
thương xót bậc quân thần có công lao với đất nước, liền sai quan triều
đình về tận nơi làm lễ phúng viếng và phong mĩ tự cho 5 ngài:
- Vương Thị Đào là “Đào hoa trinh thuận công chúa”
- Vương Thị Liễu là “Liễu hoa linh ứng công chúa”.
- Vương Đức Minh là “Thiên Bồng Đại tướng quân đại
Vương”
- Vương Đức Xuân là “Dực thánh linh ứng đại vương”
- Vương Đức Hồng là “Anh vũ dũng lược đại vương”.
Năm vị được nhân
dân tôn làm “Thượng đẳng phúc thần” và đã xây dựng đền thờ phụng
tại quê hương An Lạc.
Trong cuốn “Hải Dương di tích và danh thắng” các tác giả viết
rằng: Khu di tích đền Cao thờ năm anh em họ Vương. Tuy nhiên qua tìm hiểu tư liệu
điền dã và cách bố trí thờ phụng và lễ nghi nơi đây thì không phải là năm anh em họ Vương mà là năm
chị em họ Vương. Như vậy khi so sánh giữa tư liệu đã được nghiên cứu
với tư liệu điền dã luôn đặt cho chúng ta một dấu hỏi mà chúng ta
cần cùng nhau giải đáp.
2. Khu di tích Đền Cao
Khu di tích Đền Cao gồm có 5 đền thờ
- Đền Cả thờ Vương phụ, Vương mẫu và Vương Thị Đào (Đào hoa
trinh thuận công chúa) Vương Thị Liễu là ( Liễu hoa linh ứng công chúa)
Bên cạnh đền là chùa
- Đền Cao: thờ trưởng nam họ Vương: Vương Đức Minh (Thiên
Bồng Đại tướng quân đại vương)
- Đền Bến Tràng thờ Vương Đức Xuân (Dực thánh linh ứng
đại vương).
- Đền Bến Cả thờ Vương Đức Hồng (Anh vũ dũng lược đại
vương)
Đền Cả toạ lạc giữa cánh đồng xanh tươi trù phú,
nằm cạnh dòng Nguyệt Giang thơ mộng, uốn mình chở nặng phù sa. Đền
Cả mang một dáng vẻ uy linh, huyền ảo được bao trùm bởi những cây cổ
thụ gần 1000 năm. Đền Cả là nơi thờ phụng Vương phụ Vương mẫu và hai
chị cả “ Đào Hoa Trinh Thuận công chúa” và “ Liễu Hoa Linh Ứng công
chúa”. Đền được xây dựng theo kiến trúc thời Nguyễn: 3 gian tiền tế,
1 gian trung từ, 1gian hậu cung. Trên nóc ngôi đền có đôi rồng chầu mặt
trời do cụ phó sĩ ở Nam Hà đắp.
Theo nhiều nhà nghiên cứu nhận xét thì đây là một
trong những đôi rồng đẹp nhất miền Bắc. Trong đền có nhiều bức hoành
phi, câu đối cổ ca ngợi công lao to lớn của 5 vị thánh tiêu biểu là bức hoành phi “ Tam linh tích hựu” và câu đối “ Thần
hoá khai tiên cổ miếu anh linh quang lạc địa; Thánh sinh kế hậu tiền
Lê trung liệt trấn nam thiên” .
Trong quá trình hơn 1000 năm kiến thiết trùng tu xây
dựng di tích quê hương, người An Lạc cùng các cấp chính quyền, ban
ngành đoàn thể của xã, thị xã, tỉnh cùng du khách thập phương cả
nước đã bổ sung vào đây nhiều hạng mục công trình để di tich ngày
càng khang trang tố hảo. Bên cạnh đền Cả là ngôi chùa thâm nghiêm,
trầm mặc - nơi phật Thích Ca ban phúc cho muôn dân. Đền Cả sẽ mãi mãi
là điểm hẹn văn hoá tâm linh của những con người biết trân trọng công
tích của tổ tông và của lịch sử.
2. ĐỀN CAO
Cách đền Cả trừng 500m về phía đông, du khách thấy
ẩn hiện thấp thoáng trong vẻ u tịch của rừng lim cổ thụ ngôi đền Cao
nằm trên đỉnh núi Thiên Bồng thuộc dãy núi Voi, trước mặt là dòng
Nguyệt Giang mềm mại uốn lượn ôm ấp trọn vùng đất này. Được thế
rồng cuộn hổ ngồi, đền Cao trầm mặc, uy nghi đã chứng kiến bao thăng
trầm dâu bể của hơn 1000 năm với vô vàn biến động dữ dội, với bom
đạn chiến tranh và lòng người tan hợp theo thế sự xoay vần.
Đền Cao là một ngôi đền độc đáo, được xây dựng từ
thế kỉ 10 ( năm 981) và được trùng tu nhiều lần. Kiến trúc còn lại
bây giờ là kiến trúc thời Nguyễn
theo kiểu chữ Đinh: 3 gian tiền tế, 2 gian trung từ, 1 gian hậu cung,
mái ngói rêu phong, những đầu đao cong vút, trên mái là bức phù điêu
lưỡng long chầu mặt trời. Bàn tay tài hoa của người thợ đã mang lại
cho di tích một dấu ấn riêng với 113 bậc gạch thả dài từ đỉnh núi
xuống chân núi, nơi sân đền có thờ
voi đá, ngựa đá.
Trầm ngâm trước cửa đền, phóng tầm mắt nhìn ra bốn
phương tám hướng du khách có thể liên tưởng đến thế hổ chầu, voi
phục của 99 ngọn đồi bao bọc xung quanh ngọn Thiên Bồng như trải ra
một không gian kì vĩ, tầng tầng lớp lớp... Trong đền còn lưu giữ
nhiều đồ thờ tế tự giá trị, với những bức hoành phi, câu đối thể
hiện công lao to lớn của vị thánh được phụng thờ nơi đây. Trongcung
cấm còn lưu giữ Ngọc phả và 11 sắc phong của các đời vua Minh Mệnh
đến vua Khải Định.
Từ lâu đền Cao đã lưu truyền trong dân gian về sự linh
thiêng và nhiều bí ẩn mà người đời chưa thể lý giải. Cổ nhân Lạc
Đạo có câu “ Biết không nói, không biết không hỏi”. hay “không được mở
khám thờ” nên gian cấm đền Cao là cả một sự bí ẩn mà không ai được
vào ngoài năm quan đám.
Khi vào các quan đám phải tuân theo những qui định
rất khắt khe như: không được ăn mặn, không có tang tóc, phải tắm rửa
sạch sẽ, phải mang khăn bao hàm, qua cửa vào cung cấm phải bước chân
phải vào trước và khi ra phải bước chân trái ra trước… Đền Cao đã và
sẽ mãi lưu giữ được nguyên vẹn giá trị văn hoá tâm linh.
3. ĐỀN BẾN TRÀNG
Đền Bến Tràng cũng là một trong những ngôi đền lớn
nằm cạnh dòng Nguyệt Giang. Nơi thờ phụng ngài Vương Đức Xuân- Dực
Thánh Linh Ứng đại vương. Đền được xây dựng theo kiến trúc hình chữ
Đinh, 02 gian tiền tế, 01 gian hậu cung. Về nơi đây du khách sẽ được
thả hồn theo dòng Nguyệt Giang trôi từ miền quá khứ hào hùng về
hiện tại phồn thịnh trôi tới tương lai tươi đẹp hơn.
4. ĐỀN BẾN CẢ
Đền Bến Cả là ngôi đền có nhiều chuyện ly kỳ. Đây
là ngôi đền trần
(không có mái che) thờ người con trai thứ 5 là Vương
Đức Hồng – Anh Vũ Dũng lược đại vương. Theo truyền thuyết xưa, khi
người dân lập đền thờ, công việc chuẩn bị chu đáo nhưng cứ xây lên
lại đổ, xây lại đổ, vào một đêm có một vị thần hiện lên bảo rằng:
“Nếu có thờ thì xây đủ 100 gian, không thì để thờ trần và nếu thờ
trần thì làm một bình hương đá, một tráp đá, một đèn đá.” Và từ
đó dân ta quyết định để ngôi đền trần thờ cúng. Có lẽ đây là một
ngôi đền đặc biệt nhất trong hệ thống di tích đền thờ Việt Nam.
5. ĐỀN VUA
Toạ lạc trên núi bàn cung – nơi vua Lê Hoàn bàn luận
việc quân cơ năm 981 và quyết định
chọn Dược Đậu Trang ( An Lạc ngày nay) để đóng doanh đồn. Nơi
đây như còn ấm dấu chân vua Lê Đại Hành trong cuộc kháng chiến
Tống đưa tâm linh du khách trở về
trang sử hào hùng của dân tộc.
Căn cứ vào tài liệu lịch sử, nơi đây đã từng có
các dinh thự, hành cung và nhiều vị trí đồn trú cùng với các kho
quân lương, vũ khí để sử dụng trong việc nuôi quân, tập luyện, bài
binh bố trận trong các cuộc kháng chién chống giặc Tống. Những dấu
tích còn lại đến nay vẫn còn mang tên theo lịch sử như: Cánh Đồng
Dinh, Núi Gạo, Núi Tiền, Bàn cung...
Cùng với sự giúp đỡ của các ngành, các cấp chính
quyền, các tập thể, cá nhân, đặc biệt là sự đầu tư của Bộ Quốc
phòng với số vốn là 10 tỉ bươc đầu đã xây dựng được nơi thờ phụng
Vua Lê Đại Hành với các hạng mục công trình: Đền thờ chính, sân đền,
đường lên đền. Tuy nhiên công trình vẫn chưa được thật hoàn thiện. Rất
cần có sự đầu tư hơn nữa của các ngành các cấp, các tập thể, cá
nhân.
Đền thờ chính được xây dựng theo kiến trúc hình chữ
Đinh, 3 gian tiền tế, 1gian hậu cung. Trong đền có nhiều đồ thờ tế
tự, các hoành phi, câu đối, thể hiện
rất rõ tài năng, đức độ và công lao to lớn của vua Lê Đại Hành. Ví
dụ: Bức hoành phi “Xuất thánh minh”, “Vạn cổ anh linh”, câu đối “Đức
đại an dân thiên cổ thịnh; Công cao vạn quốc vạn linh trường”...
Đứng trên đỉnh núi Bàn Cung phóng tầm mắt ra phía
trước du khách được tận hưởng một không gian khoáng đạt, giúp du khach
tìm thấy sự bình yên trong tâm hồn. Trong không gian ấy dòng Nguyệt
Giang như một nét vẽ của tạo hoá, mềm mại uốn lượn như ôm ấp lấy
miền quê trù phú.
Khu di tích Đền Cao đã hình thành và phát triển hơn
1000 năm nay. Tuy qui mô của các ngôi đền không lớn nhưng đã hội tụ
được linh khí của đất trời. Bao phen vật đổi sao dời, dầm mưa dãi
nắng. Bao thuở “nồi da nấu thịt” khói súng thuốc bom thế mà các ngôi
đền vẫn ngạo nghễ cùng trời đất.
Điều thiêng liêng ấy không phải đến bây giờ mới nhận
ra mà cách đây gần 300 năm Tiến sĩ Chu Đôn Lâm đã từng khẳng định “
Núi chẳng cần cao hễ có tiên ở là trở nên nổi tiếng. Sông chẳng cần
sâu, hễ có rồng cuốn là trở nên linh thiêng. Vì thì đền thờ cần gì
phải nguy nga lộng lẫy, cần gì phải có tô đỏ vẽ xanh, mà chỉ cần
có linh thần là đã thiêng liêng rồi.” Chân lý ấy sẽ mãi vĩnh tồn và
được các thế hệ đời sau chứng nghiệm.
Chùm ảnh đền Cao Chí Linh