Dọc theo sông Hồng về phía Tây, cách thủ đô Hà Nội chừng 30 km có một vùng đất cổ. Ở đó có một ngôi làng đá ong, kết tinh của nền văn minh vùng châu thổ sông Hồng từ hàng ngàn năm trước. Đó là Đường Lâm thuộc thị xã Sơn Tây, Hà Nội.
Nằm bên hữu ngạn sông Hồng, cách Hà Nội 50km về phía Tây,
làng cổ Đường Lâm (xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây, Hà Nội) là điểm đến yêu thích
của du khách khi đến thăm Hà Nội, mong muốn khám phá một Hà Nội xa xưa, cổ
kính.
Đặc biệt, đến với Đường Lâm cũng là đến với “vùng đất hai
vua” khi nơi đây đã sinh ra hai người anh hùng dân tộc đấu tranh kiến thiết nền
độc lập tự chủ là Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng và Ngô Vương Quyền.
Nói đến Đường Lâm là nói đến vùng đất của một cộng đồng dân
cư gồm năm, sáu làng họp lại Không nên quan niệm Đường Lâm là một xã với sự
phân chia hành chính hiện thời do các làng: Mông Phụ, Đông Sàng, Phụ Khang, Cam
Lâm, Cam Thịnh, Đoài Giáp, Văn Miếu... làm nên. Bởi như thế khó có thể đánh giá
một cách tổng quát về lịch sử - Văn hoá đã diễn ra trên mảnh đất này.
Đường Lâm tên nôm gọi là Kẻ Mía, có lẽ tục danh này được bắt
đầu từ một cái tên rất chữ nghĩa: Cam Giá (Mía ngọt)! Cam Giá xưa kia được chia
ra thành hai ''Tổng'': Cam Giá Thượng và Cam Giá Hạ. Cam Giá Thượng là các xã
thuộc miền Cam Thượng, Thanh Lũng, Bình Lũng.. .(Nay thuộc về huyện Ba Vì). Cam
Giá Hạ là xã Đường Lâm (Nay thuộc thị xã Sơn Tây).
Phải chăng đai đất hữu ngạn sông Hồng từ thời thượng cổ, khi
chưa có hai bờ đê sừng sững chạy dài định vị dòng sông (Đê sông Hồng trở thành
hệ thống có lẽ vào thời Lý), để mỗi khi vào mùa nước lại ào ạt đổ vê ngầu đỏ phủ
sa, bồi đắp nên Tam giác châu thố đồng bằng Bắc Bộ mà sông Hồng là cái trục
phân chia địa giới hành chính hai tỉnh rất rõ rệt: Vĩnh Phúc - Hà Tây.
Dải đồng bằng hữu ngạn sông Hồng kéo dài từ những bậc thềm của
núi Tản (Tản Viên Sơn - Núi Tổ) xoải mải về xuôi, tạo ra một miền phì nhiêu trù
phú, một năm hai vụ bốn mùa rộn rã tiếng canh cửi tằm tang: Ngọt mãi đến tận
bây giờ với một địa danh đã đi vào lịch sử bằng những kỳ tích như những huyền
thoại.
Đường Lâm là vùng bán Sơn địa, trên những quá đồi trung du
thuộc làng Cam Lân, đến tận bây giờ vẫn còn lại những cái tên: Đồi Cấm, Nghẽn
Sơn, Vũng Hùm... in đậm dấu tích một thời trai trẻ của ạnh em Phùng Hưng, Phùng
Hãi.. .
Truyền thuyết kể lại rằng: Thủa ấy trên đồi là rừng đại ngàn
rậm rạp, dưới trằm giộc lau lách um tùm. Năm ấy cọp về, có một con cọp hung đữ
đã bắt đi bao mạng người. Dân trong vùng sợ hãi không dám vào đồi kiếm củi hái
chè. Đêm đêm cọp dữ còn mò cả vào làng rình bắt trâu bò lợn gà, khắp cả làng
chưa nhọ mặt người đã vội vã về nhà, luồng lạch rấp kín, cổng ngõ văng chặt,
xóm làng eo óc một nỗi sợ hãi rình rập bất cứ lúc nào.
Có một trai làng cực kỳ khoẻ mạnh quyết tâm diệt hổ dữ trừ
hoạ cho dân làng. Lựa một tháng cuối đông gió Bấc se sắt thối, khí lạnh trên đồi
tràn về làm rờn rợn da người, chàng trai bện người nộm đem vào đồi đến bên mép
nước cắm xuống, ba bốn đêm liền như thế... Đêm ấy như bao đêm khác, hổ dữ ra
vũng nước duy nhất còn xót lại trong vùng, trước khi vục đầu uống hổ ta lấy tay
tát đổ người nộm như mọi hôm thường vẫn thế.
Nhưng nó đâu có ngờ hôm nay có một cánh tay rắn chắc đã túm
chặt lây đầu nó và liên hồi giáng xuống những quả đấm nặng như búa tạ... Chàng
trai thông minh dũng cảm, có sức khoẻ phi phàm đó chính là Phùng Hưng!
Phùng Hưng sinh ra và lớn lên ở làng Cam Lân (xã Đường Lâm),
nửa sau thế kỷ VIII, đất nước ta chịu ách đô hộ của nhà Tùy Đường cực kỳ hà khắc.
Phùng Hưng đã cùng em là Phùng Hãi và Bồ Phá Cần chiêu tập binh sĩ cùng nhân
dân phất cờ khởi.nghĩa. Từ quê hương ông đánh thành Tống Bình (Hà Nội), đập tan
tành đạo quân xâm lược của Cao Chính Bình, dành lại quyền độc lập tự chủ (791-
802). Nhân dân tôn vinh ông là: Bố Cái Đại Vương!
Nói đến Phùng Hưng không thể không nói đến một người còn ưu
tú nữa đó là Ngô Quyền. Ngô Quyền là con trai Châu Mục Đường Lâm Ngô Mân (Ông
chính là người làng Cam Lâm). Ngô Quyền sinh ra tướng mạo tuấn kiệt hơn người,
sáng mắt như sao, sức địch muôn người. Thuở tráng niên đã từng ghì sừng hai con
trâu đực đánh nhau làm cho chúng hoảng sợ mà buông nhau bỏ chạy.
Lớn lên ông làm nha tướng cho Dương Diên Nghệ, trấn thủ châu
Hoan, Châu Ái. Sau loạn Kiều Công Tiễn ông đã trấn yên nước nhà và tiến hành cuộc
kháng chiến chống thù ngoài, trận đánh trên sông Bạch Đằng thể hiện sự thông
minh tài trí thiên tài trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta.
Một nhân vật lỗi lạc nữa đã để lại mốc son chói lọi trong
trang sử nước nhà là Thám Hoa Giang Văn Minh. Ông sinh năm Nhâm Ngọ (1582) ở
làng Mông Phụ. Tháng 2 năm Mậu Thìn (1628), đời Lê Vĩnh Tộ ở nước ta ông dự
khoa thi Hội, đỗ nhất giáp Tiến sĩ, cập đệ tam danh. (Có điều đáng lưu ý là
khoa thi năm ấy không lấy Trạng Nguyên, Bảng nhãn).
Năm Đinh Sửu (1637) ông được Triều đình cử làm chánh sứ, dẫn
đầu một phái bộ sang Triều Minh. Sử cũ chép rằng: Trong khi hội kiến với vua
nhà Minh, sứ thần Giang Văn Minh đã trổ tài thao lược, đối đáp với vua nhà
Minh.
Một lần vua Minh ra vế đối: ''Đồng trụ chí kim đài dĩ lục"
(Cột đồng trụ đến ray rêu đã phủ xanh) Giạng Văn Minh khảng khái đối lại rằng:
“Đằng giang tự cổ huyết do hồng" (Sông Bạch Đằng từ xưa máu thù còn loang
đỏ).
Vua Minh nổi giận vì bị nhắc đến nỗi nhục thua trận, liền
sai mổ bụng sứ thần Giang Văn Minh xem "gan to mật lớn" đến nhường
nào! Giang Văn Minh chết, vua Minh tiếc một bậc tài danh, sai người ướp thủy
ngân vào xác đưa về nước.
Đường Lâm không chỉ là mảnh đất “địa linh'' sinh ''nhật kiệt"
tên tuổi họ đã gắn liền với trang sử hào hùng của dân tộc, mà Đường Lâm còn là
một địa chỉ Văn hoá có ý nghĩa rất quan trọng trong việc nghiên cứu tìm hiểu những
"cộng đông cư dân nông nghiệp cổ".
Theo một số nghiên cứu đánh giá gần đây của một số học giả
thì làng Mông Phụ (thuộc xã Đường Lâm) là: Đại diện duy nhất về lúa nước châu Á
còn xót lại! Đây là làng Việt cổ đá ong, đá ong ở đây được xây dựng với một quy
mô rộng lớn và hoành tráng, nghệ thuật kiến trúc tinh xảo, tiêu biểu là đình
làng Mông Phụ. Căn cứ vào niên đại xây dựng còn xác định được, đình Mông Phụ đã
có cách đây 364 năm.
Ngồi đình mang đậm dấu ấn của lối kiến trúc Việt - Mường
(Đình có sàn gỗ), có thể nói đây là một bông hoa về nghệ thuật kiến trúc những
nét tài hoa có một không hai ấy còn được lưu giữ trên những bức trạm cốn và đầu
dư.. Tinh vi trong từng nhát đục, song cũng cực kỳ tinh tế trong quy hoạch tổng
thể mang tính vĩ mô.
Giai thoại kể rằng: Đình Mông phụ đặt trên đầu một con rồng
mà giếng làng là hai mắt, sân đình đào thấp hơn so với mặt bằng xung quanh, có
vẻ như là một nghịch lý so với kiến trúc hiện đại, song thực ra đó lại là một dụng
ý của người xưa.
Khi mưa xuống, nước từ ba phía ào ạt đổ vào (Nước chảy chỗ
trũng), phải chăng đó là một khát vọng về một đời sống ấm no! Sau đó nước từ từ
thoát ra theo hai cống nhỏ chạy dọc theo nách đình (Chống thủy lôi tâm), từ xa
nhìn lại, trong mưa hai rãnh nước vẽ nên hai râu rồng vừa thật lại vừa ảo, quả
thật là một ý tưởng hết sức lãng mạn của các kiến trúc sư cổ... Trước cửa đình
là một cái sân rộng, sân này là nơi biểu diễn các trò khi làng vào đám (Hội
làng).
Không chỉ là như thế, sân này còn là một cái "ngã
sáu" khổng lồ, xoè ra như những cánh hoa, rồi quy tụ mọi con đường trong
làng về trung tâm. Có điều rất đặc biệt, từđình có thể đi đến bất cứ xóm nào
trong làng cũng không ai phải trực liếp quay lưng lại với hướng đình. Thật là độc
đáo!
Vốn là mảnh đất giàu truyền thống, đến những năm đầu thế kỷ
XX làng Mông Phụ lại sinh những người con ưu tú khác, đó là cụ Phan Kế Toại.
Phan Kế Toại (1898-1973) là con tậi Tuần phủ Phan Kế Tiến.
Lúc còn trẻ ông được cha cho đi du học tại Pháp ở Pháp ông
được đưa vào đào tạo ở trường "Hành Chính" trong khi nguyện vọng ông
muốn học luật. Tại đây, ông đã được gặp lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong những năm
bôn ba hải ngoại, Nguyễn Ái Quốc đã khuyên ông nên học trựờng "Hành
Chính", sau này có nhiều điều kiện giúp ích cho nước nhà... (Theo lời kể của
Hoạ sĩ Phan Kế An).
Học xong Phan Kế Toại về nước, ông được thăng nhậm từ
"tri phủ" đến "Khâm sai đại thần"... Sau khi cách mạng
Tháng Tám bùng nổ ông bỏ nhiệm sở về nhà, sống nhàn tản như một người làng Mông
Phụ. Nếu có ai hỏi ông chỉ cười mà rằng: "Lão giả an tri!" (Già rồi về
nhà dưỡng lão).
Sau đó ông nhận thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ông lên Việt Bắc
tham gia vào cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc. Tại chiến khu ông được
chính phủ cử giữ chức: Bộ trưởng Bộ Nội vụ, chức năng của Bộ Nội vụ ngày ấy, rộng
hơn bây giờ, nó bao gồm cả Bộ Công an trong quán lý lãnh đạo... ở cương vị của
mình trong chính phủ kháng. chiến tại Việt Bắc ông đã có một phần đóng góp rất
khoa học, quan trọng; nhiều nhân sĩ sống trong "thành" tấm tắc ngợi
khen, và họ tham gia rất tích cực. "Hoà bình lập lại" (1954) ông cùng
chính phủ về Hà Nội, và được Đảng, Nhà nước cử giữ chức Phó Thủ tướng Chính phủ!
Sinh thời, cụ Phan Kế Toại rất quan tâm đến đời sống dân
làng, chính cụ là người mang nghề làm nón, làm áo tơi lá về làng. Mông Phụ, mở
lớp dạy ngay tại "từ đường" họ Phan. Rất tiếc trong làng có kẻ độc mồm
bảo: "Cụ đi làm quan với thíên hạ, lại đem cái nghề ăn mày về
làng..." (Ãn mày nón lá áo tõi). Cùng thời điểm này, dân làng Phú Châu -
Phủ Quảng Oai đã du.nhập nghề chằm nón vào, hiện nay trở thành nghề truyền thống
của làng Phú Châu huyện Ba Vì. Không thành, cụ đem Cô-ta của nhà máy sợi Định về
cho làng dệt lấy công.
Chiến tranh thế giới nổ ra, nhà máy sợi dưới "Nam"
đóng cửa, hàng trăm khung sợi của làng gác trên sà nhà cho nhện xây tổ... Thế mới
biết cụ là người luôn lo đên việc mở nghề cho dân.
Trong thời kỳ hiện đại còn một người nữa phải kể đến là Bộ
truởng Bộ Thủy lợi Hà Kế Tấn. Ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình có truyền
thống rất nổi tiếng về nghề thợ mộc, ông nội được cả vùng trân trọng gọi là
"cụ Mục'' (Đầu Mục sứ- Người cai quản thợ của cả sứ Đoài).
Lớn lên ông ra Hà Nội kiếm sống và được giác ngộ lý tưởng
Cách mạng. Trong phong trào "dân chủ" (1936-1939) ông đã lập ra
"ái hữu thợ mộc" ở Hà Nội, đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ... Toàn quốc
kháng chiến ông lên chiến khu, hoà bình lập lại ông được Đảng và Chính phủ cử
giữ chức Bộ trưởng Bộ Thủy lợi.
Có thể nói Bộ trưởng Hà Kể Tấn là một trong những người đầu
tiên đặt nền móng cho Công trình thuỷ đĩện Hoà Bình hôm nay... Cũng giống như cụ
Phan Kế Toại, cụ Hà Kế Tấn cũng hết sức chăm lo đến đời sống dân làng Đường
Lâm, cụ là người quy hoạch và xây dựng hệ thống thủy lợi của đồng đất Đường
Lâm, vốn một vùng bán Sơn địa rất nhiều khó khăn trong canh tác đã bao đời
nay... Suốt mấy chục năm qua (từ 1946), nhờ vào hệ thống tưới cấp I & II, đời
sống người dân nơi đây cũng được cải thiện đáng kể, một phần không nhỏ phải kể
đến cụ!
Nói đến Đường Lâm còn rất nhiều tên tuổi phải kể đến, đó là
cụ Phó Bảng Giá Sơn Kiều Oánh Mậu ở Đông Sàng, chính cụ là người hiệu
đính Truyện Kiều, có thể nói nhờ vào bản "Kiều" này (cùng với
hai bản Kiều Khác!à: Bản Kiều Kinh - Do Tự Đức biên soạn, và bản Kiều Phạm Quý
Thích) là những tư liệu hết sức bổ ích cho việc hiệu đính và biên soạn Truyện
Kiều sau này của Đại thi hào dân tộc Nguyễn Du.
Vào thế kỷ XVII, ở Đông Sàng còn có bà Ngô Thị Ngọc Dung (tức
gọi là Bà Chúa Mia), bà là phi tần của chúa Trịnh Tráng. Chính bà là người hưng
công xây dựng chùa Mía (Sùng Nghiêm tự), một trong những ngôi chùa đẹp của Sứ
Đoài và cả nước. Bên cạnh đó chính bà là người "mở chợ, lập bến đò",
chấn hưng lại nghề nấu kẹo trộn đường, cung cấp đường mật cho phố Hàng Đường Hà
Nội...
Trải năm tháng thời gian, gần đây nhất là hai cuộc kháng chiến
cứu nước, nhân dân Đường Lâm luôn làm tốt mọi nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao
phó, trong đợt tuyên dương công trạng vừa qua, nhân dân xã Đường Lâm được Nhà
nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang...
Làng cổ Đường Lâm vẫn vẹn nguyên những nét đặc trưng của một
làng Việt truyền thống với cổng làng, cây đa, bến nước, sân đình, điếm
canh, giếng nước, ruộng, gò, đồi, miếu, chùa…Chỉ cách một quãng đường ngắn nối
với đô thị ồn ào, nhưng khung cảnh làng Đường Lâm vô cùng yên ả. Phong cảnh
làng toát lên vẻ đẹp thuần khiết của một làng nông thôn Bắc bộ điển hình.
Đây cũng là ngôi làng thuần Việt với hầu hết các công trình
như giếng làng, cổng làng, đình, chùa làng xây bằng đá ong và gỗ kết hợp với
các vật liệu có sẵn ở địa phương, nhưng trải qua hàng thế kỷ vẫn tồn tại đến
ngày nay.
Nét cổ ở làng Đường Lâm nằm ở kiến trúc cổng làng và đình
Mông Phụ. Cổng làng xây bằng đá ong có kiến trúc hình vòm. Vốn dĩ trước đây
làng có tới 5 cổng, một cổng lớn và 4 cổng trấn tứ phương.
Nhưng hiện tại chỉ còn sót lại cổng làng duy nhất được xây dựng
từ năm 1833, trên cổng còn có dòng chữ “Thế hữu hưng ngơi đại”, tạm hiểu là “thời
nào cũng có người tài giỏi”. Cổng làng Đường Lâm ở giữa khung cảnh thiên nhiên
với màu xanh của đồng lúa, bên cạnh ao làng và cây đa cổ thụ đầu làng. Có lẽ bởi
vậy, cổng làng Đường Lâm là một trong những cổng làng đẹp, là nguồn cảm hứng
sáng tác của nhiều văn nghệ sỹ, các nhà nhiếp ảnh.
Anh Nguyễn Chính, nghệ sỹ nhiếp ảnh, quê ở làng Đường Lâm kể:
"Trải qua những thăng trầm biến động, nhưng hôm nay trở về làng, tôi vẫn cảm
thấy sự nguyên vẹn. Sự vẹn nguyên ấy bắt nguồn từ cộng đồng dân cư nông thôn bảo
thủ trồng lúa nước ở vùng đồng bằng Bắc bộ. Cũng chính vì vậy mà nó giữ lại bao
kỷ niệm, những di sản mà cho đến nay khiến ta vẫn ngỡ ngàng".
Đình Mông Phụ là công trình bề thế ở khu đất cao giữa làng.
Đình Mông Phụ được xây dựng năm 1684 (niên hiệu Vĩnh Tộ đời vua Lê Hy Tông), có
nét đặc trưng của đình Việt.
Đình Mông Phụ mang đậm dấu ấn của lối kiến trúc Việt – Mường
( của người Việt cổ), đình có sàn gỗ cách mặt đất, mô phỏng kiểu kiến trúc của
nhà sàn. Sân đình thấp hơn mặt bằng xung quanh nên khi trời mưa, nước chảy vào
sân rồi thoát ra theo hai cống ở bên tạo thành hình hai râu rồng. Bên trong
đình còn có nhiều cổ vật quý được nhiều thế hệ gìn giữ.
Làng Đường Lâm còn nổi tiếng bởi những ngôi đền thờ, các
lăng, miếu thờ các vị đại vương. Người dân Đường Lâm tự hào là người dân vùng đất
hai vua là vua Ngô Quyền và Phùng Hưng.
Đền thờ vua Phùng Hưng được xây dựng ở thôn Cam Lâm, cũng
chính là nơi nhà vua chiêu mộ quân sỹ, phất cờ khởi nghĩa chống lại ách đô hộ của
nhà Đường. Ngôi đền và các di tích lăng tẩm của các vị vua là bằng chứng kể về
truyền thống lịch sử của làng.
Ông Phùng Khắc Thành ở thôn Cam Lâm, cho biết: "Ngày
xưa vua Phùng Hưng triệu tập quân tướng về đây tổ chức tập luyện để mở màn cuộc
khởi nghĩa. Sau khi ông mất, dân làng xây dựng Đền ở đây. Khuôn viên ngôi đền
trước đây to rộng lắm, nhưng những năm kháng chiến chống Thực dân Pháp, làng
tiêu thổ kháng chiến, ngôi Đền bị phá hủy rồi được xây dựng lại, chứ trước đây
có đền có các hàng cột to và ngôi đền uy nghi tráng lệ lắm".
Đền thờ vua Ngô Quyền đã được tu sửa nhiều lần, lần gần đây
nhất là vào thời Vua Tự Đức (1848 – 1883). Ngô Quyền là vị vua nổi tiếng với trận
đánh trên sông Bạch Đằng nhấn chìm toàn bộ chiến thuyền của quân Nam Hán. Trận
chiến lịch sử ấy đã chấm dứt 1000 năm đô hộ của phong kiến Trung Hoa, lập nên
triều Đại Ngô, nêu cao nền độc lập tự chủ của dân tộc Việt.
Nét nổi bật ở Đường Lâm là những ngôi nhà cổ. Trong làng hiện
có tới 956 ngôi nhà cổ, tập trung nhiều nhất ở các thôn Đông Sàng, Mông Phụ và
Cam Thịnh. Nhiều ngôi nhà được xác định xây dựng từ các năm 1649, 1703, 1850...
Những ngôi nhà có cổng, tường rào quanh nhà xây bằng đá ong theo lối xưa bằng đất
đá, bã trấu, bùn để tạo chất kết dính.
Nhà cổ chủ yếu dựng bằng gỗ mít và gỗ lim với những nét chạm
trổ tinh xảo. Ông Kiều Văn Thông ở xóm 3, thôn Đông Sàng, xã Đường Lâm, cho biết:
"Ngôi nhà của tôi được làm hoàn toàn từ gỗ trên nền đất đá ong. Nhà có 5
gian, hai chái. Gian giữa để thờ có bàn thờ, trang trí cửa võng, có bàn ghế, sập
gụ Các nét chạm trổ vẫn được giữ nguyên với các tích phong cảnh thể hiện nền nếp
của các cụ ngày xưa. Ngoài sân vườn vẫn có cái giếng đá ong cổ. Đó là cái cha
ông để lại cần phải bảo tồn để nó không mai một đi".
Đường Lâm trở thành làng cổ đầu tiên ở Việt Nam được Nhà nước
trao bằng Di tích lịch sử văn hóa quốc gia ngày 19 tháng 5 năm 2006. Ngày nay,
dù đã hiện đại nhiều, làng cổ Đường Lâm vẫn còn giữ được nhiều nét cổ kính đặc
biệt là những kiến trúc cổ gợi mở cho con người hôm nay về đời sống của cha
ông, những giá trị lịch sử - văn hóa được truyền thừa qua các thế hệ.
Cùng với những di tích lịch sử, những phong tục tập quán của
người dân, làng cổ Đường Lâm là địa danh nổi tiếng thu hút khách du lịch bốn
phương tới tham quan để hiểu thêm về lịch sử, nét văn hóa độc đáo của các làng
quê Việt.
Cổng vào Đường Lâm với cây đa cổ thụ tỏa bóng mát rượi
Chùa Mía mái ngói rêu phong
Những ngày đầu năm luôn có đông du khách đến viếng chùa
Lối vào chùa Mía
Hai dãy tượng Phật La Hán bên tả, hữu lối từ chùa trung sang chùa thượng
Nằm trong khuôn viên của làng Việt cổ, chùa Mía vẫn giữ được vẻ thâm trầm, cổ kính với mái ngói rêu phong, lối vào khuôn viên lúc nào cũng tĩnh mịch. Cảnh chùa càng khiến du khách thêm quyến luyến với những gốc cây cổ thụ rợp bóng mát, tháp Cửu phẩm Liên Hoa sừng sững bên phải lối vào.
Nếu ghé vào những ngày thường, chùa Mía không đông đúc như chùa Tây Phương, chùa Thầy hay đền Và cách đó không xa. Cũng bởi lẽ đó, trong không gian u tịch, phảng phất khói hương lòng người càng thanh tịnh hơn khi ghé cửa Phật cầu mong bình an giữa bộn bề cuộc sống.
Khuôn viên bên trong chùa Mía
Đền thờ vua Phùng Hưng
Điều đặc biệt là toàn bộ phần tiền đường, kiến trúc gỗ không
được sơn son như nhiều ngôi đình, chùa thường thấy mà giữ màu sắc tự
nhiên. Phần thiếp vàng mới được tu sửa, được làm từ vàng thật càng khiến
công trình này thêm phần lộng lẫy. Trong đền còn lưu giữ tấm bia đá cổ
quý giá. Mùng 8-1 hàng năm, đình Phùng Hưng tổ chức lễ lớn để tưởng niệm
Bố Cái Đại Vương.
Tấm bia đá cổ được lưu giữ trong đình thờ Phùng Hưng
Cách đền thờ Phùng Hưng chừng 200m, nằm chếch về phía tay trái là đền thờ và lăng vua Ngô Quyền. Quần thể kiến trúc này đang trong quá trình tôn tạo, tu bổ nhưng vẫn giữ được ngôi đền cổ kính xây bằng gạch, lợp ngói mũi hài.
Đền có phần tiền đường và hậu cung tạc tượng Ngô Quyền. Đặc biệt, trong đền còn lưu giữ hai cọc gỗ do Ngô Quyền sai quân lính đóng dưới dòng sông Bạch Đằng để chống lại quân Nam Hán trong trận chiến lẫy lừng lịch sử.
Trong quần thể này còn có lăng Ngô Quyền vừa được trùng tu năm 2013 tạo vẻ uy nghiêm, bề thế. Đáng chú ý nhất, nơi đây còn giữ được rặng ruối ngàn tuổi, tương truyền là nơi ngày xưa Ngô Quyền đã buộc voi ở đó. Thực hư chưa biết nhưng những gốc ruối cổ thụ, có khi hai vòng tay người ôm không hết đến giờ lúc nào cũng xanh tốt.
Lăng Ngô Vương Quyền mới được tu sửa khang trang
Rặng ruối ngàn tuổi nằm trong quần thể đền, lăng
Đến Đường Lâm, ngoài ba công trình nổi tiếng nói trên còn có: đình tổng thờ Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng nằm đối diện ngay chùa Mía. Đình làng Mông Phụ với kiến trúc cổ độc đáo hay đền phủ Bà Chúa Mía cũng là những di tích mà du khách không nên bỏ qua.
Đền thờ Thám Hoa Giang Văn Minh.