Làng Dương Lôi thuộc châu Cổ Pháp xưa, nay là phường Tân Hồng, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Nơi đây quê của Thánh Mẫu Phạm Thị Ngà, mẫu thân Vua Lý Thái Tổ, vùng quê có kho tàng văn hoá văn nghệ dân gian phong phú, cùng nhiều đình - đền - chùa, được Bộ Văn hoá cấp bằng di tích lịch sử Quốc gia.
Thời Bắc thuộc, Dương Lôi thuộc Hương Diễn Uẩn, châu Cổ
Pháp, quận Giao Chỉ, vào thời Tiền Lê, cây gạo trong làng bị sét đánh, khiến
thân cây hiện ra bài sấm ngữ. Năm 1010, Lý Công Uẩn lên ngôi Hoàng Đế, kể từ đó
làng Dương Lôi ra đời. “Lôi” có nghĩa là “Sấm” nên dân làng trong vùng thường gọi
là “kẻ Đình” hay làng “Đình Sấm”.
Với bề dày lịch sử, làng Dương Lôi hiện còn rất nhiều các di
tích quý giá: Đền Sấm, chùa Cha Lư, chùa Càn Nguyên, đền thờ Lý Thánh Mẫu… Nằm
trên dải đất cao đẹp ở phía Đông Nam, làng Dương Lôi nổi tiếng với một ngôi
đình được xây dựng vào thời Lê năm 1626, thờ thân Mẫu vua Lý Công Uẩn. Phía sau
đình là chùa Cha Lư (Minh Châu) với bình diện kiến trúc theo kiểu chữ quốc ngữ
(nội công ngoại quốc), qua nhiều lần tu sửa nay chỉ còn lại nhà Tổ giáp với
chính điện ở phía sau hồi.
Tại đền Miễu, làng Dương Lôi, nay thờ Thánh Mẫu Phạm Thị và
8 vị vua nhà Lý, truyền rằng sau khi lên ngôi Hoàng đế, vua Lý Thái Tổ đã xuôi
thuyền theo đường sông về quê, cho dân làng tiền vàng để xây dựng đền Miễu thờ
thân Mẫu. Đền được xây dựng ở khu đồng Miễu cách xóm Sau, nơi sinh ra vua khoảng
500m.
Hiện nay, làng Dương Lôi có một hệ thống di tích lịch sử văn
hoá phong phú. Nơi đây còn lưu giữ được rất nhiều cổ vật : 8 ngai vua, 8 bài vị,
9 đạo sắc phong, chuông đồng, bia đá…Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, làng
Dương Lôi không những đóng góp về kinh tế mà góp phần bảo tồn những di sử quý
giá cho nhân loại. Năm 1993, chùa Cha Lư và đình Dương Lôi được cấp Bằng công
nhận di tích lịch sử văn hoá Quốc gia; năm 2009, đền Miễu làng Dương Lôi được
đón nhận Bằng di tích lịch sử văn hóa Quốc gia.
Cứ đến 12/2 âm lịch hàng năm, để tưởng nhớ ngày sinh của Lý
Công Uẩn, hội làng Dương Lôi được tổ chức với nhiều trò chơi dân gian: cờ tướng,
chọi gà, hát quan họ dưới nước, trên đình, thi nấu cơm, têm trầu cánh phượng, tổ
tôm điếm…Đặc biệt là truyền thống “lò vật” nổi tiếng ở vùng Cổ Pháp, thu hút
nhiều du khách tứ phương.
Có thể nói, hệ thống di tích văn hóa - lịch sử của làng cổ
Dương Lôi chứa đựng nhiều giá trị nghệ thuật kiến trúc tín ngưỡng của người Việt
ta hàng ngàn năm qua. Đó là những sử liệu quý giá có thể giúp các nhà khoa học
nghiên cứu tiến trình phát triển của vùng quê này suốt cả ngàn năm qua.
Làng Dương Lôi nay thuộc phường Tân Hồng, thị xã Từ
Sơn, tỉnh Bắc Ninh nằm giữa hai quốc lộ 1A và 1B, cách trung tâm thủ
đô Hà Nội chừng 20 cây số về phía Đông Bắc. Đây là một làng Việt cổ
có rất sớm ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Vùng quê này đất đai màu mỡ,
phì nhiêu, dân cư đông đúc, có nhiều thuận lợi cho việc sản xuất, cấy
trồng, làm thêm nghề phụ, buôn bán và phát triển về sinh hoạt văn
hóa xã hội. Đặc biệt làng Dương Lôi có một vị thế quan trọng gắn
bó mật thiết với lịch sử Vương triều Lý, nhất là sự ra đời và
tuổi thơ của vua Lý Thái Tổ Công Uẩn. Trải qua hơn một nghìn năm thiên
biến, nơi đây vẫn còn lưu truyền câu chuyện lịch sử lúc sinh Vua đậm
màu huyền thoại...
Ngày ấy, làng Diên Uẩn (tên cũ làng Dương Lôi bây
giờ) mới có hai xóm nhỏ Tiến Tài, Tiến Lộc và người ở vẫn còn
thưa thớt vắng vẻ. Giáp phía Đông Bắc làng là con đường "cái
quan" chạy từ phủ Từ Sơn (huyện Đông Ngàn) vào chùa Phật Tích
(Vạn Phúc tự). Ở cái quán nhỏ đầu làng cạnh đường, có một cô thôn
nữ trẻ, xinh đẹp bán nước chè xanh và quà bánh vặt.
Cô đang mang thai, đi lại nặng nhọc, nước da mai mái,
nét mặt hiền từ đôn hậu lúc nào cũng tươi cười cởi mở với mọi người.
Nhưng nếu ai tinh ý, sẽ nhận ra trong đôi mắt đen huyền sâu thẳm ấy ẩn
chứa một nỗi niềm suy tư lo lắng...
Cô thôn nữ ấy tên Thị Ngà - là con ông bà họ Phạm ở
trong làng, từ nhỏ đã nức tiếng nết na xinh đẹp lại hay lam hay làm.
Nhà nghèo, mẹ cha già yếu, cô gái phải đi làm thuê, làm mướn cho các
nhà giàu có chức sắc ở trong vùng. Sau khi cha mẹ lâm bệnh qua đời,
do sự quen biết từ trước, thiền sư Lý Vạn Hạnh trụ trì chùa Tiêu Sơn
(Thiên Tâm tự) đã nhận cô Ngà vào "làm Thủ hộ trông nom, quét
dọn, tưới rau trong chùa"...
Thời gian chưa được bao lâu, đùng một cái bỗng có tin
động trời: Cô Thủ hộ ở chùa Tiêu Sơn tự nhiên "không chồng mà
chửa"! Dân làng sửng sốt, bàn tán xôn xao. Cô Ngà thì hổ thẹn,
tủi cực, chẳng biết phân bua thế nào. Cô đau buồn "cầm lòng ra
khỏi mái Tam quan" đành trở về cái quán nhỏ bên đường
"cái quan" lại bán nước
chè xanh và quà bánh vặt để kiểm sống nuôi thân và chờ ngày sinh
nở...
Rồi một đêm mưa
gió, ngày 12 tháng 2 năm Giáp Tuất (974), tại xóm Đường Sau trong túp
nhà tranh nhỏ bé bỗng có ánh hào quang sáng rực và tiếng trẻ khóc
oa oa át cả tiếng sấm chớp gió mưa.
Ba bà hàng xóm vội vã chạy sang, mỗi người một tay
cắt rốn, tắm rửa, lấy tã ủ ấm cho cháu bé... Họ mừng rỡ reo lên
"con trai" và bế đứa bé lên cái chõng tre cô Ngà nằm. Cô gái
khốn khổ mừng rơi nước mắt, đón con ôm chặt vào lòng. Mấy bà hàng
xóm vui vẻ giục cô Ngà đặt tên cho con. Cô gái nghẹn ngào xúc động
nói trong nước mắt: "Làng ta là làng Diên Uẩn, thôi cứ gọi tên
cháu là cu Uẩn cho dễ nhớ các bà ạ!"
Thấm thoắt cậu bé Uẩn đã lên 3 tuổi, năm Đinh Dậu
(977) được sư Lý Vạn Hạnh "mách mối", cô gái họ Phạm đưa con
sang chùa Cổ Pháp ở làng Nuốn (nay là làng Đại Đình) cho nhà sư
chùa này là Lý Khánh Văn làm con nuôi để được ăn mày cửa Phật và
theo học võ công, thư pháp... Từ đấy cậu bé được mang tên đây đủ: Lý
Công Uẩn.
Rồi 27 năm sau, cậu bé được sinh ra ở căn nhà nhỏ
xóm Đường, sau làng Diên Uẩn Dương Lôi ngày nay chính là đức Vua Lý
Thái Tổ Công Uẩn - Vị vua khởi nghiệp Vương triều Lý, khai sáng nền
văn minh Đại Việt và tạo dựng nên kinh thành Thăng Long thủ đô Hà Nội
ngày nay.
Đến cuối triều Lê
thì làng Diên Uẩn được đổi tên là Dương Lôi. Cái tên Dương Lôi gắn
liền với bối cảnh lịch sử nước ta hồi đó: Năm Bính Ngọ (1006) triều
đình nhà Lê ngày một suy đồi, Lê Long Đĩnh giết anh ruột là Lê Long
Việt cướp ngôi vua và làm nhiều điều hủ bại tàn ác. Quần thần trong
triều bất bình căm tức, dân chúng khắp nơi cực khổ oán hờn. Cùng
thời gian này, ở châu Cổ Pháp xứ Đông Ngàn liên tiếp xuất hiện những
bài sấm, bài khuyến, bài kệ và thơ phú hò vè nội dung đều ám chỉ
"nhà Lê đã suy tàn, nha Lý sẽ lên thay".
Tương truyền rằng:
Hồi đó ở hương Diên Uẩn (làng Dương Lôi) xảy ra một hiện tượng kỳ
lạ. Giữa ban ngày, trời không mưa không gió, bỗng có một tiếng sét
lớn đánh vào cây Gạo cạnh chùa Minh Châu (Cha Lư) tung ra một mảnh vải
điều có bài "sấm ngữ", dịch nghĩa như sau:
Gốc cây thăm
thẳm
Ngọn cây xanh
xanh
Cây hòa đao
rụng
Mười tám
hạt thành
Cây đâm xuống
đất
Cành khác
lại sinh
Đông mặt
trời mọc
Tây sao náu
hình
Khoảng sáu
bảy năm
Thiên hạ
thái bình.
Bài "sấm ngữ"
trên như "điềm trời" báo trước sự ra đời của nhà Lý. Quả
nhiên, năm Canh Tuất (1010) Lý Công Uẩn chính thức lên ngôi Hoàng đế
trị vì thiên hạ. Sau sự kiện này, tên làng Dương Lôi ra đời. Lôi cũng
là Sấm nên dân chúng quanh vùng thường gọi nôm na là làng Đình Sấm
hay kẻ Đình.
Làng Dương Lôi ngày
nay là một thôn lớn gồm 5 xóm: Tiến Tài, Tiến Lộc, xóm Đường Sau
(Đình), xóm Lẻ (Trung Hòa) và xóm Mới (Cổng Chùa) với 30 dòng họ
hơn 800 hộ và gần 4000 nhân khẩu. Những năm gần đây, mật độ dân số
tăng, để phù hợp với địa dư và điều kiện thực tế, xóm Trung Hòa đã
được trên quyết định lập đơn vị hành chính thành một thôn riêng. Nhưng
về mặt tình cảm huyết thống cội nguồn và sinh hoạt tín ngưỡng tâm
linh vẫn là anh em con cháu một nhà, mỗi khi lễ hội, việc làng lại
chụm lại ghé vai cùng nhau gánh vác.
Làng Dương Lôi hiện có một hệ thống di tích lịch sử
văn hóa và kiến trúc nghệ thuật đậm đặc gồm: Đình, đền, chùa, văn
chỉ, nghè, miếu, lăng mộ, sông Tiêu Tương... Rất đáng tiếc trong kháng
chiến đã bị phá đi chỉ còn lại một số tư liệu lịch sử. Nhưng hiện
tại với những tên làng, tên đất, tên sông, xóm ngõ, cánh đồng vẫn như
nhắc nhở người dân Dương Lôi nhớ về mảnh đất quê hương nguồn cội khai
hoa một Vương triều vẻ vang cường thịnh. Nơi đây còn lưu giữ được rất
nhiều cổ vật như: 8 chiếc ngai vua, 8 bài vị cổ, 9 đạo sắc phong,
chuông đồng, bia đá, hoành phi, câu đối và các tập sách tạp văn chữ
Hán cổ... Đây là những sử liệu vô cùng quý giá để lại cho muôn đời
con cháu mai sau.
Làng Dương Lôi nổi tiếng có một ngôi đình to đẹp.
Đình được xây dựng vào thời Lê năm Bính Dần (1626), niên hiệu Vĩnh Tộ
thứ 6. Đình thờ mẹ sinh Vua Lý Thái Tổ Công Uẩn: "Tuyên Bảo Thái
hậu đương cảnh Thành hoàng"... và "Bát vị Tiên Hoàng đế Lý
triều" (Tám vị Vua nhà Lý).
Ngôi đình dựng trên một dải đất đẹp, cao ráo ở phía
Đông Nam làng. Bên phải là dòng Tiêu Tương nước trong vắt bắt nguồn từ
Loa Hồ (Đền Đầm) chảy vòng vèo ra sông Thiên Đức (sông Đuống). Phía
Bắc là ngọn núi Tiêu Sơn sừng sững tượng Thiền Ông hoài vọng về đền
Lý triều Thánh Mẫu. Phía Đông Bắc đình là dãy núi "Đại Sơn long
đầu khởi" chạy dài xa xa tới tận chùa Phật Tích trầm mặc uy nghiêm.
Vào đình làng Dương Lôi phải qua một tòa ngũ môn quan
(5 cửa 3 tầng). Đây là một dãy tòa cổng lớn có giá trị kiến trúc
nghệ thuật cao rất hiếm ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Cổng cao hơn 10
mét, 3 tầng cửa vòm, mái ngõa ngói ống, đồng trụ đèn lồng, lưỡng
long chầu nguyệt. Đường nét hoa văn chữ Hán cải đắp tinh xảo, các con
giống, viền mái đầu trụ, dao cuốn... đạt trình độ điêu luyện khiến
du khách tham quan ai cũng phải sửng sốt khâm phục.
Chếch sau đình là chùa Cha Lư (Minh Châu). Căn cứ vào
bia chùa Cha Lư (Cha Lư tự bi) dựng ngày mồng 7 tháng 4 năm Vĩnh Tộ
thứ 6 (1624) cho biết: Chùa khởi công vào ngày 13 tháng 10 năm Quý
Hợi, đến tháng Giêng năm sau (Giáp Tý) thì hoàn thành và ngày mồng 3
tháng 3 dựng bia ghi nhận công đức. Nhưng dựa vào lời văn trên quả
chuông đồng "Cha Lư tự chung" (chuông chùa Cha Lư) đúc ngày 13
tháng 3 năm Mậu Tý đời vua Minh Mệnh (1828) do cử nhân Trần Lai Phủ
soạn, có ghi: "... Dương Lôi là ấp thanh mộc của Thánh Mẫu Lý
triều, xa xưa đã có chùa Cha Lư và chùa Càn Nguyên, cả hai chùa đều
có bia. Vào năm Bính Ngọ triều Lý đều bị thất lạc"... Như vậy,
nếu tính trong 216 năm Vương triều Lý trị vì thì có 3 năm Bính Ngọ
(1066, 1126, 1186). Nếu theo như văn chuông đã ghi bia của chùa bị mất
một trong 3 năm trên thì năm gần nhất cũng đã cách đây khoảng 800 năm
đến 900 năm. Bởi vậy các nhà nghiên cứu sử học đã kết luận: Chùa
Cha Lư làng Dương Lôi đã có rất lâu đời và đến thời Lê thì được trùng
tu lại.
Chùa Cha Lư - Minh Châu tự
Ngoài ra, làng Dương Lôi còn có Đền thờ Lý triều
Thánh Mẫu (Đền Miễu) ở ngoài cánh đồng Miễu trong khu "sơn lăng
cấm địa". Từ xa xưa dân làng đã lấy ngày sinh của vua Lý Thái
Tổ Công Uẩn (12 tháng 2 âm lịch) là ngày hội làng. Ngày xưa, lễ hội
làng Dương Lôi tổ chức rất to và kéo dài hàng tuần. Đặc biệt nghi
thức tế lễ ở trong đình rấ̉t uy nghiêm long trọng. Tiếng trống tế và
cách đánh trống cũng khác biệt với các làng trong vùng. Còn tục lệ
rước thì rất đông và hoành tráng. Đoàn người tập hợp gồm nhiều đội
hình, kéo dài hơn nửa cây số suốt từ đình ra đền và từ đền về
đình (với ý nghĩa là các vua đón rước mẹ về dự hội rồi tan hội
lại đưa mẹ ra đền).
Lễ hội truyền thống làng Dương Lôi mở vào tháng 2 âm lịch hàng năm, là sinh hoạt tâm linh văn hóa cộng đồng tiêu biểu, thể hiện sự nhớ ơn của nhân dân Dương Lôi với bà Phạm Thị Ngà và các vua triều Lý.
Lễ hội kéo dài từ ngày mồng 9 đến ngày 15, bình thường mở trong 2 ngày là mồng 9 và mồng 10 tháng 2.
Ngày mồng 9: là ngày nhập tịch với lễ rước ngai Thánh mẫu từ đền về đình để tế lễ, mở hội.
Ngày mồng 10: là ngày chính hội, được tổ chức linh đình, trọng thể, bao gồm các lễ thức theo trình tự sau:
- Lễ rước 8 ngai thờ vua Lý từ đình qua đền rồi lại quay lại đình. Sau đó làng tiến hành tế lễ rất uy nghiêm và mở hội vui với nhiều trò chơi dân gian
- Đi đầu đoàn rước là hàng cờ báo, tiếp theo là đồ hộ quốc, hồng tượng, trái dành, bát biểu, cờ ngũ hành, cờ trung hạng, 8 ngai vàng, 8 kiệu và các cụ hộ giá theo trình tự : ngai, long đình, hương án, cờ, lọng, quạt, tán rực rỡ, kiệu, chiêng, trống, bát âm rộn rã, tưng bừng.
Về trang phục, người tham gia lễ rước ăn mặc có nét đặc thù. Người mang rìu đồng, phủ việt đóng khố bao khăn, khăn vắt, mũ võ, giày võ là biểu tượng của tướng đá Rãi, người dân tộc phò vua Lý. Người cầm cờ ngũ hành, hàng báo đều áo vóc, đi hia, cờ tiến đai ngang ngực; các cụ hộ giá đều đội mũ văn, áo thụng, đi hia. Những người mang cờ trung hạng và hồng trượng, trái dành, bát bửu đều mặc áo chêm bằng dạ hay vóc.
Về trống và nghệ thuật đánh trống của làng Dương Lôi trong lễ rước và tế lễ có nhiều nét độc đáo. Mặt trống lớn, đường kính rộng tới 1m, trống cao khoảng 1m50. Người đánh trống khai hội theo nghi thức: đánh trống vừa tiến ba bước, lùi hai bước rồi múa các vũ đạo: quay tơ, tráng siêu và tuốt gươm. Chiêng đánh trở ra, lên một bước, xuống một bước, cứ ba tiếng trống lại ba tiếng chiêng. Trống đi ở phía trái đoàn rước, ở trước và ở sau, chiêng đi giữa. Khi rước xong tiến hành tế lễ. Chủ tế là quan đám do làng cử, làm nhiệm vụ thắp hương thờ thánh trong cả năm. Người tham gia ra tế cũng do làng chọn cử, đó là các vị chức sắc, trong sạch, vợ chồng song toàn. Tất cả 28 người vận mũ văn, áo thụng, đi hia.
Người đánh trống đánh ba hồi (hồi thứ ba là trống thét), tiếp đó đánh tiếp ba hồi trống thét cho ông đám chuẩn bị vào tế. Tiếng trống thét của làng Dương Lôi vang động cả một vùng như tiếng sấm gọi trời mưa, vì thế mà làng còn có tên là làng Đình Sấm.
Sau các kỳ tế lễ, các hoạt động văn hóa được tổ chức ở khu vực đình, chùa bao gồm: diễn chèo, tuồng, múa rối nước, hát cô đầu (ca trù), cờ người, đu tiên, chọi gà, đấu vật, múa rối nước... Lễ hội làng Dương Lôi không thể thiếu môn đấu vật vì làng Dương Lôi có nhiều gia đình cha truyền con nối tham gia đấu vật.
Lễ hội làng Dương Lôi là hoạt động văn hóa tâm linh cộng đồng tập trung và tiêu biểu, thể hiện truyền thống lịch sử văn hóa của quê hương thánh mẫu Phạm Thị Ngà, trở thành di sản văn hóa phi vật thể phong phú và quý giá để tìm hiểu về nhà Lý - một triều đại vàng son và hiển hách trong lịch sử nền văn minh Đại Việt.
Dương Lôi cũng là làng có truyền thống thượng võ
với lò vật nổi tiếng ở vùng Cổ Pháp, Đông Ngàn. Nổi danh với những
đô: Vũ Tài Chỉnh, Nguyễn Như Sửu đã đạt danh hiệu "Kiện tướng
Quốc gia"... Do vậy, những ngày
hội làng, xới vật vẫn là nơi sôi động nhất, được nhiều đô có tiếng
khắp nơi về tranh giải. Tiếng hò reo nơi bãi vật vừa dứt thì tiếng
trống chèo đã rộn rã nổi lên. Vốn là "đất chèo" nên ở
làng Dương Lôi hầu như ai cũng biết hát và nhiều người hát hay. Có
thời điểm làng có tới 4 đội văn nghệ (2 đội chèo, 1 đội cái lương
và 1 đội Quan họ). Các "cụ trùm", liền anh, liền chị, các
đào kép ở làng Dương Lôi đã từng đi diễn rất nhiều nơi và giúp đỡ,
đào tạo xây dựng phong trào cho nhiều địa phương kết nghĩa. Ngoài ra,
trong những ngày hội làng còn có nhiều trò vui như: Cờ tướng, tổ tôm
điếm, chọi gà, hát Quan họ trên đình, dưới thuyền, thi làm bánh, nấu
cơm niêu, têm trầu cánh phượng... rất vui nhộn, thu hút người quanh
vùng đến xem rất đông. Bởi vậy dân gian mới có câu ca "Kéo hội kẻ
Đình" (mở hội to như làng Đình Sấm).
Bao thế kỷ qua, Dương Lôi đã được đánh giá là một
làng quê có truyền thống Văn hiến cách mạng. Qua hai cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ,
hơn 300 người con làng Dương Lôi đã lên đường nhập ngũ chiến đấu
bảo vệ Tổ quốc, 69 liệt sĩ hiến trọn cuộc đời, 46 thương binh đã để
lại một phần cơ thể nơi chiến trường và 3 người mẹ Việt Nam anh hùng
đã dâng hiến những đứa con vô cùng yêu thương của mình cho non sông đất
nước.
Trong lao động sản xuất, thời kỳ nào làng Dương Lôi
cũng là "điểm sáng điển hình" về phong trào thâm canh tăng
năng xuất lúa. Là lá cờ đầu đạt 8 tấn thóc một héc ta của tỉnh Hà
Bắc cũ. Với mục tiêu "Đưa chăn nuôi lên thành ngành chính"
Dương Lôi cũng là hợp tác xã điển hình của toàn quốc. Được tặng
nhiều Huân chương Lao động, Bằng khen, Giấy khen và vinh dự được các
đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước về thăm động viên
khen ngợi.
Sau ngày đất nước thống nhất, chuyển sang nền kinh
tế thị trường, Dương Lôi cũng là làng quê đi tiên phong, hòa nhịp vào
sự đối mới chung của xã hội. Là một làng thuần nông, chỉ quanh năm
làm ruộng độc canh cây lúa, nay ruộng đất còn ít đã phát triển
nhiều ngành nghề khác để hỗ trợ cho sản xuất nông nghiệp, nâng cao
mức sống cho nông dân. Số người thi đỗ vào các trường đại học, cao
đẳng ngày càng nhiều. Hàng loạt những người con trong làng đã có
hàm cấp, học vị, danh hiệu như: Nhà giáo ưu tú, Nghệ nhân bàn tay
vàng, Luật sư, Bác sĩ, Kiến trúc sư... và nhiều người đã trở thành
người lãnh đạo chủ chốt các cơ quan đoàn thể ở Trung ương và địa
phương.
Làng cổ Dương Lôi
đang từng ngày, từng giờ thay da đổi thịt. Nhà cao tầng san sát mọc
lên. Ban đêm vào làng ngỡ như thành phố. Trên cánh đồng làng xưa, bây
giờ dày đặc những khu công nghiệp.
Lúa, khoai, rau màu xanh mướt xen kẽ dưới những mái tôn, lò cao nhà
máy. Cả làng không còn một mái nhà tranh, không còn người thiếu bữa.
Bây giờ chỉ thấy người người đua nhau xây dựng nhà đẹp và mua sắm
tiện nghi sinh hoạt cao cấp văn minh...
Về làng Dương Lôi hôm nay, du khách ngỡ ngàng về sự
thay đổi nhanh đến chóng mặt. Nhưng có một điều bất ngờ và lý thú
hơn nữa là ở làng cổ Dương Lôi có nhiều sự trùng lặp với kinh thành
Thăng Long xưa - thủ đô Hà Nội ngày
nay: Làng Dương Lôi có 5 cổng làng - Hà Nội có 5 cửa ô. Làng Dương Lôi
có 3 cây cầu đá sang các xóm - Hà
Nội có 3 cây cầu sang Bắc Ninh. Làng Dương Lôi có 36 ngõ bàn cờ - Hà
Nội có 36 phố phường. Làng Dương Lôi có chùa Càn Nguyên (Càn Nguyên
tự) - Hà Nội có Càn Nguyên điện... Ngoài ra còn con số 8. Con số 8
rất quen thuộc song cũng rất kỳ lạ huyền bí: Làng Dương Lôi thờ
Thánh Mẫu và... 8 vị vua nhà Lý thì cũng có 8 nơi thờ cúng, 8 giáp
họ làm giỗ 8 vị vua, 8 phường, 8 hội, 8 cây muỗm ở chùa Càn Nguyên, 8
cây nhãn ở sân đình, cây đa 8 cành cạnh đình làng rồi 8 thứ bánh dân
làng làm trong những ngày tiết lệ hội làng...
Hiện nay, làng cổ
Dương Lôi đang tập trung sức người sức của tu bổ và tôn tạo giữ gìn
cho quần thể (3 di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia) cho ngày thêm
khang trang sạch đẹp kỷ niệm 1010 năm Thăng Long Hà Nội. Đặc biệt, vừa
qua ngôi Đền Miễu thờ Thánh Mẫu Lý triều Phạm Thị đã được Nhà nước
đầu tư 45 tỷ đồng cho dân làng Dương Lôi cùng các cấp địa phương trùng
tu xây dựng theo dự án thiết kế của sở VHTT & DL tỉnh Bắc Ninh.
Đây là sự quan tâm của Nhà nước, là niềm vui phấn khởi tự hào của
người dân quê mẹ đức vua Lý Thái Tổ Công Uẩn.
Đất nước như một
con Rồng lớn đang bay lên. Làng cổ Dương Lôi cũng đang trong đà đổi mới
tiến triển nhanh chóng. Quê hương "Thánh Mẫu Lý triều - Dương Lôi
phát tích" sẽ mãi mãi là điểm sáng như huyền thoại lung linh,
là làng quê văn hóa giàu đẹp tiêu biểu của miền quê Bắc Ninh - Kinh Bắc!