Theo thần tích, lưu giữ tại đền Hữu Lộc, làng Hữu Lộc, xã Xuân Hòa, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình cùng nhiều văn bản lịch sử khác. Đây là quê hương của Hoàng hậu Đỗ Thị Khương, triều vua Lý Nam Đế. Đền Hữu Lộc được coi là chính từ, các đền phụ cận đều được coi là vọng từ vì có công khuông phù Lý Nam Đế từ buổi đầu dựng quân, tụ nghĩa chống giặc Lương.
Truyền ngôn rằng: Lũy vua tiền Lý (Lý Nam Đế) xây đắp là lũy
Hồ, tư thất của vua đặt ngay trên nền đất miếu Hai Thôn (xã Xuân Hòa, huyện Vũ
Thư) ngày nay. Khi vua băng hà, dân sở tại sửa sang phủ đệ cũ thành đền miếu.
Lý Nam Đế xây biệt điện ở trang An Để, hương Màn Để, gọi là An Điện, treo bức
hoành phi 4 chữ: “Vạn Xuân chính điện” (Chính điện của nước Vạn Xuân).
Các nguồn khảo luận và truyền ngôn hương Màn Để đều ghi nhận
họ Đỗ huyện Chu Diên là con cháu đại sư Đỗ Viện. Sách “Đại Việt sử ký toàn thư”
ghi nhận: Đỗ Viện người Chu Diên ta. Cuốn “Linh Nhân Lý, Tiền Lý triều phả lục”
có ghi: Vào thời thuộc Lương (thế kỷ VI), tại khu Tây Để, hương Màn Để có cụ Đỗ
Công Cần và phu nhân Bùi Thị Hoan là hào trưởng trong vùng.
Cụ sinh thục nữ, đặt tên là Đỗ Thị Khương, diện sinh tựa ngọc,
dáng tựa tiên nga, tài đức trọn vẹn. Tuy là lệnh nữ nhưng vẫn chăm chỉ việc đồng,
việc nhà. Một lần, Lý Nam Đế đi tuần du đến thôn Tây Để, lính hiệu dẹp đường,
dân tình giãn ra, riêng Đỗ Thị Khương thản nhiên nhổ cỏ, tát nước. Lính ngự lâm
vặn hỏi, Đỗ Thị chẳng hề run sợ, nét mặt tươi tắn, lễ phép trả lời “Ta đang bận
việc nước non à”, vẫn nhanh tay liềm, miệng nở như hoa hát: “Tay cầm bán nguyệt
xênh sang/Tay đang giữ nước sửa sang cõi bờ”.
Lý Nam Đế nghe hết lời hai bên, biết thôn nữ xinh đẹp kia
không phải người thường liền xuống ngựa đến bên ân cần hỏi nhà cửa, quê quán rồi
sai phu kiệu khiêng thẳng đến phủ đệ họ Đỗ, dâng lễ vật ngỏ hỏi xin rước Khương
nương về trướng phủ. Từ đó hai họ Lý, Đỗ kết thân.
Theo danh mục “Thần tích, thần sắc Việt Nam” thì cả vùng Thượng
Hộ (bao gồm từ xã Hồng Minh, huyện Hưng Hà đến Hiệp Hòa, huyện Vũ Thư và sang
sông bên xã Bạch Đằng, huyện Đông Hưng) đều thờ Lý Nam Đế và Linh Nhân Lý Đỗ Thị.
Các làng: Thượng Hộ, Gia Lạc, An Điện, Thanh Hương, Đồng Đại, Hữu Lộc, Phương Tảo,
Thanh Bản, An Để... còn lưu giữ được thần sắc cổ, đặc biệt bộ thần tích viết từ
thời Hồng Phúc nhà Lê.
Tiêu biểu là cuốn “Lý Nam Đế Phả Lục” (dân gọi là Ngọc Phả)
và thôn Hữu Lộc còn cuốn “Linh Nhân Lý, Tiền Lý triều phả lục”, tuy bản chép về
vua Lý, bản chép về Đỗ Hoàng hậu nhưng khớp lại thì thành bộ sử thế kỷ VI của
vùng Màn Để và thiên tình sử bi tráng giữa Đức ông Lý Bí và Đỗ Thị Khương.
Ngọc phả của các làng Cự Lâm, Hữu Lộc, xã Xuân Hòa và Hậu
Tái, Bạch Đằng, xã Hiệp Hòa (Vũ Thư) đều khẳng định hương Màn Để (Hiệp Hòa, Vũ
Thư ngày nay) là quê hương Đỗ Hoàng hậu (vợ vua Lý Nam Đế).
Tương truyền, trong một lần hành quân qua hương Màn Để để đến
đất Tây Trang (nay là thôn Hữu Lộc, xã Xuân Hòa), Đức ông Lý Bí nhìn thấy khu đất
(nay là thôn An Để, xã Hiệp Hòa và thôn Phương Tảo, xã Xuân Hòa, huyện Vũ Thư)
có thế long chầu, hổ phục, nhân dân nơi đây no đủ, phong tục thuần hậu liền hạ
lệnh cho binh lính dựng trại lưu quân.
Đức ông Lý Bí nhận thấy đây là vùng đất an lành liền truyền
lệnh binh sĩ cùng nhân dân hương Màn Để đắp đồn lũy, xây dựng hành cung chuẩn bị
cho những cuộc chiến lâu dài chống quân xâm lược phương Bắc.
Sau khi xây dựng xong đồn lũy và hành cung tại hương Màn Để,
mọi việc yên hàn, Đức ông Lý Bí nhường quyền chỉ huy đồn lũy ở hương Màn Để cho
Đỗ phu nhân rồi dẫn đại quân lên đường tiếp tục chiêu binh, mộ tướng, mở rộng
căn cứ chống quân xâm lược phương Bắc.
Ngược dòng thời gian, mùa đông năm 541, sau thời gian làm
quan Giám quân ở Đức Châu (huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh ngày nay) dưới thời nhà
Lương đô hộ, không chịu được cảnh áp bức, bóc lột và âm mưu đồng hóa của nhà
Lương, Đức ông Lý Bí đã liên kết với hào kiệt các châu lân cận khởi binh chống
nhà Lương.
Dưới sự lãnh đạo của vua Lý Bí, nghĩa quân nhanh chóng kiểm
soát toàn bộ Giao Châu, Bắc Trung Bộ, quận Hợp Phố (Quảng Đông, Trung Quốc
nay).
Mùa xuân năm Nhâm Tý (542), Đức ông Lý Bí xuống lệnh cho
quân sĩ về hương Màn Để (xã Hiệp Hòa, Xuân Hòa, huyện Vũ Thư nay) hội quân,
khao quân rồi xuất quân đi đánh Châu Thanh. Theo các nguồn khảo luận, đại quân
thủy bộ của Đức ông Lý Bí đi tới đâu cờ xí rợp trời, binh khí chói trời, chiêng
trống lay động chín tầng mây, ngựa thuyền trùng trùng, điệp điệp.
Dẹp giặc ở Châu Thanh xong, đại quân của Đức ông Lý Bí tiến
về thủ phủ Giao Châu (thành Luy Lâu, thuộc tỉnh Bắc Ninh ngày nay), chỉ trong một
trận mà tướng giặc Lương là Lâm Vũ Hầu bạt vía kinh hồn phải vứt áo mũ trà trộn
trong đám lính bại trận tháo chạy về phương Bắc.
Mùa xuân năm Giáp Tý (544), sau khi đánh bại hoàn toàn quân
Lương, đức ông Đức ông Lý Bí xưng đế, lên ngôi vua, đặt niên hiệu là Thiên Đức,
lập trăm quan, đặt tên nước là Vạn Xuân, đóng đô ở Ô Diên (nay là xã Hạ Mỗ, Đan
Phượng, Hà Nội), dựng điện Vạn Thọ làm nơi triều hội, thành lập triều đình với
hai ban văn, võ. Lấy Triệu Túc làm thái phó, Tinh Thiều đứng đầu ban văn, Phạm
Tu đứng đầu ban võ.
Tấn phong Đỗ phu nhân làm Hoàng hậu, lấy đất Tây Để (làng Hữu
Lộc, xã Xuân Hòa nay) để phụng dưỡng quốc trượng Đỗ Công Cần, lấy đất Thần Hậu
(nay thuộc xã Bạch Đằng, huyện Đông Hưng) làm Thái ấp Hoàng hậu. Vua cũng trọng
thưởng cho nhân dân hương Màn Để rất hậu, ban tặng bạc vàng, thóc gạo, lụa là,
châu báu cho các bô lão, miễn sưu thuế cho dân.
Quân Lương sau những thất bại nặng nề dã tâm quay lại đánh
tan nước Vạn Xuân. Chúng tập hợp binh tài, tướng giỏi, mộ quân khắp vùng, đến đầu
năm Ất Sửu (545), nhà Lương dồn sức đem quân tấn công Vạn Xuân nhằm chiếm lại
Giao Châu. Lý Nam Đế đem quân đánh chặn ở Lục Đầu nhưng thế trận không cân sức.
Quân Đức ông Lý Bí hạ trại ở vùng trũng, đêm ấy trời mưa to, nước dâng cao,
doanh trại ngập trong biển nước, không kịp rút, giặc Lương thừa thế xông vào
đánh chiếm,
Lý Nam Đế đành rút quân lên động Khuất Lão (thuộc tỉnh Phú
Thọ nay) bảo toàn lực lượng, tiếp tục chống giặc. Quân Lương thừa thế liên tiếp
tấn công, vây hãm. Lý Nam Đế ở trong động lâu ngày nhiễm chướng khí, sinh bệnh,
hai năm sau vua băng hà vào ngày 20 tháng 3 năm Mậu Thìn (548).
Biết tin Lý Nam Đế băng hà, Đỗ Hoàng hậu khóc lóc thảm thiết,
đem đội hương binh lên động Khuất Lão làm lễ an táng nhà vua, sai quân lính xây
dựng sơn lăng trên Liên Hoa Phong (đồi Hoa Sen) thuộc làng Cổ Tiết, huyện Tam
Nông, tỉnh Phú Thọ nay. Xót thương đức vua vô hạn, Đỗ Hoàng hậu cũng lâm bệnh,
lui về An Để, bà mất cùng năm với nhà vua.
Nhân dân các làng Sòi, Bản, Hương, Hậu Lộc, Cự Lâm (xã Xuân
Hòa nay); An Để, xã Hiệp Hòa; Thượng Hộ, xã Hồng Lý (Vũ Thư); Kim Bôi, xã Hoa
Lư; An Lễ, Thọ Vực, xã Hoa Nam; Thần Hậu, xã Bạch Đằng (Đông Hưng) đều lập đền
thờ vua tiền Lý. Đặc biệt, miếu Hai Thôn, trung tâm của hương Màn Để xưa, nay nằm
giữa hai thôn An Để, xã Hiệp Hòa và Phương Tảo, xã Xuân Hòa (Vũ Thư) do nhân
dân hảo tâm xây dựng trở thành chính từ.
Đền Hữu Lộc, nơi sinh Đỗ Hoàng hậu cũng được coi là chính từ,
các đền phụ cận đều được coi là vọng từ vì có công khuông phù Lý Nam Đế từ buổi
đầu dựng quân, tụ nghĩa chống giặc Lương. 14 thế kỷ đã trôi qua, miếu Hai Thôn
là bảo ngọc lung linh giữa làng quê hiện hữu cùng thời gian, nghe đâu đây giọng
thơ trầm hùng của hào kiệt Đức ông Lý Bí thuở nào khi lưu quân tại mảnh đất này
và đề thơ:
“Thành thị lâu đài giai bảo ngọc
Giang sơn, hoa thảo thống đan thanh
Dư khí trung thành, tuy tiểu mạch
Mạc cư chầu khả, kiến cung thành”.
Dịch là:
“Thành thị lâu đài xinh tựa ngọc
Núi sông, hoa cỏ ngát màu xanh
Thừa khí trung thành tuy đất hẹp
Nơi đây có thể dựng cung thành”.
Đức ông Lý Bí tự xưng hoàng đế, đặt tên nước là Vạn Xuân, định
niên hiệu, lập một triều đình ngang hàng với nước lớn phương Bắc là sự khẳng định
chủ quyền độc lập dân tộc, sự bền vững muôn đời của đất trời Việt Nam ta.
Lịch sử nước ta ghi nhận Đức ông Lý Bí (503 - 548) quê ở
hương Thái Bình, phủ Long Hưng là người đầu tiên xưng đế (Lý Nam Đế) sáng lập
ra nhà tiền Lý, lập nên nhà nước Vạn Xuân và đặt niên hiệu Thiên Đức. Đức ông
Lý Bí còn có tên gọi khác là Lý Bôn.
Giới sử gia khẳng định trong thời Bắc thuộc và chống Bắc thuộc
kéo dài hơn một nghìn năm, cuộc khởi nghĩa Đức ông Lý Bí nói riêng và vương triều
tiền Lý nói chung đã tạo ra khí thế chống giặc ngoại xâm bởi cuộc khởi nghĩa Đức
ông Lý Bí đã giành thắng lợi vang dội và giữ vững chủ quyền độc lập, tự chủ lâu
dài nhất.