Đầu năm Mậu Thìn (968), ngay sau khi Trần Lãm qua đời, Đinh Bộ Lĩnh đã lên ngôi Hoàng Đế, xưng là Đinh Tiên Hoàng, định đô ở Hoa Lư, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt. Đến năm Canh Ngọ (970), Đinh Tiên Hoàng đặt niên hiệu là Thái Bình.
Dựa vào ưu thế đặc biệt và sức mạnh quân sự, vua Đinh Bộ
Lĩnh đã lần lượt đánh bại các sứ quân. Đến cuối năm Đinh Mão (967), sự nghiệp dẹp
loạn của vua Đinh Bộ Lĩnh hoàn thành.
Tượng thờ Vua Đinh Tiên Hoàng
Năm Mậu Thìn 968, vua Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế, tự
xưng là Đại Thắng Minh Hoàng đế, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, dời Kinh ấp về động
Hoa Lư, bắt đầu dựng đô mới, đắp thành đào hào, xây cung điện, đặt triều nghi. Đến
năm Canh Ngọ (970), Đinh Tiên Hoàng đặt niên hiệu là Thái Bình.
Tượng đài vua Đinh Tiên Hoàng ở Ninh Bình
Tên Đại Cồ Việt 大瞿越. Đại là từ Hán-Việt và có
nghĩa “vĩ đại: great”; Cồ là một chữ Việt có nghĩa “to lớn, vĩ đại: great“; được
ký âm bằng một chữ Hán có âm tương ứng.
Vua Đinh Tiên Hoàng cho xây cung điện, chế triều nghi, định phẩm
hàm quan văn, quan võ. Vua phong cho Nguyễn Bặc là Định Quốc công, Đinh Điền là
Ngoại giáp, Lê Hoàn làm Thập đạo tướng quân, Lưu Cơ làm Đô hộ phủ sĩ sư, Tăng
thống Ngô Chân Lưu được ban hiệu là Khuông Việt đại sư, Trương Ma Ni làm Tăng lục,
Đạo sĩ Đặng Huyền Quang được làm Sùng chân uy nghi và phong cho con là Đinh Liễn
là Nam Việt vương. Vua lập 5 hoàng hậu là Đan Gia, Trinh Minh, Kiều Quốc, Cồ Quốc
và Ca Ông.
Từ năm Canh Ngọ 970, bắt đầu đặt hiệu năm là Thái Bình. vua Đinh
Tiên Hoàng truyền cho đúc tiền đồng, là tiền tệ xưa nhất ở Việt Nam, gọi là tiền
đồng Thái Bình. Nhà Đinh là triều đại đầu tiên đặt nền móng cho nền tài chính -
tiền tệ của Nhà nước phong kiến Việt Nam.
Đồng tiền Thái Bình được đúc bằng đồng, hình tròn, lỗ vuông,
có thể xâu thành chuỗi. Mặt phải có đúc bốn chữ "Thái Bình Hưng Bảo",
mặt sau có chữ "Đinh". Hầu hết gần 70 triều vua sau đó, triều nào
cũng cho đúc tiền của mình bằng đồng.
Về chính trị trong nước có phần quá thiên về sử dụng hình phạt
nghiêm khắc. Vua muốn dùng uy chế ngự thiên hạ, bèn đặt vạc lớn ở sân triều,
nuôi hổ dữ trong cũi, hạ lệnh rằng: "Kẻ nào trái phép phải chịu tội bỏ vạc
dầu, cho hổ ăn". Mọi người đều sợ phục, không ai dám phạm.
Về quân sự, vua Đinh Tiên Hoàng phân ra đạo, quân, lữ, tốt,
ngũ. Mỗi một đạo có 10 quân, 1 quân 10 lữ, 1 lữ 10 tốt, 1 tốt 10 ngũ, 1 ngũ 10
người. Như vậy quân đội nhà Đinh khi đó có 10 đạo, là khoảng 1 triệu người
trong khi dân số đất nước khoảng 3 triệu. Vua thực hiện "ngụ binh ư
nông", đó là hình thức vũ trang toàn dân, dựa vào nghề nông mà phát triển
quân đội.
Từ đây, triều Đinh được dựng lên và với vị thế là Hoàng Đế
Đinh Bộ Lĩnh đã có những đóng góp không nhỏ vào sự nghiệp kiến thiết quốc gia.
Sứ thần Ngô Sĩ Liên nói rằng:
Kinh đô nhà Đinh đóng tại Hoa Lư (Ninh Bình), thuộc về Trường
Châu thời Bắc thuộc lần 3. Dựa vào các khối đá vôi cao dựng đứng ôm lấy vùng đất
cao không bị ngập do thủy triều và nước lũ, lại có sông Hoàng Long ở phía bắc,
sông Sào Khê chảy xuyên qua kinh thành thuận lợi giao thông. Vua Đinh Tiên
Hoàng đã cho đắp những đoạn tường thành nhân tạo nối liền các dãy núi thiên
nhiên để tạo thành một đô thành vững chắc bảo vệ cung vua bên trong.
Việc vua Đinh Tiên Hoàng chọn Hoa Lư mà không chọn Cổ Loa của
nhà Ngô hay Đại La thời Bắc thuộc được nhà nghiên cứu Lê Văn Siêu xem là quyết
định khôn ngoan. Với hoàn cảnh đương thời, sau nhiều năm loạn lạc, Hoa Lư là địa
điểm chiến lược, nằm ở trung tâm đất nước thời đó, khống chế được cả khu vực
sơn cước từ Thanh Hóa đổ ra, sông Đà đổ xuống, thêm địa thế vừa hùng vừa hiểm
có thể cầm cự với Trung Hoa, nếu có cuộc xâm lăng của phía này tới.
Với việc chọn Hoa Lư
quê hương làm kinh đô, Đinh Tiên Hoàng có thêm sức mạnh của yếu tố nhân hòa, bởi
do thời loạn 12 sứ quân trước đó mà nhân dân các vùng khác có thể còn hoài cổ về
sứ quân chiếm đóng.
Nhà địa chất, đồng thời là nguyên Chủ tịch nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam Trần Đức Lương cũng cho rằng: tính hiểm yếu của Hoa Lư
không chỉ nhờ phần thành lũy, nền điện mà chính bởi hệ thống các thung lũng núi
sâu hơn bên trong có thể liên thông với nhau bởi các khe ngách mà ngày nay do
nước biển dâng cao đã biến thành những lạch nước ngầm.
Khi quyết định dời Đại La về Hoa Lư, vua Đinh Tiên Hoàng
không chỉ muốn dựa vào địa thế hiểm yếu của vùng núi Tràng An, tìm sự hậu thuẫn
của quê hương, họ tộc mà còn vì muốn thoát khỏi những liên kết, ràng buộc của
thể chế Trung Hoa vẫn còn nhiều ảnh hưởng ở trung tâm châu thổ lớn để chuyên
tâm chuẩn bị những bước đi mới căn bản cho sự chấn hưng dân tộc, việc trở về
xây dựng kinh đô ở Hoa Lư của vua Đinh không phải là sự quay trở lại với Chủ
nghĩa địa phương mà chính là nhằm hướng tới một tầm nhìn rộng lớn hơn của Chủ
nghĩa dân tộc mạnh mẽ.
Từ năm 968, Hoa Lư trở thành kinh đô đầu tiên của nhà nước
phong kiến Trung ương tập quyền ở Việt Nam, tồn tại 42 năm (968 - 1010), gắn với
sự nghiệp của ba triều đại liên tiếp là nhà Đinh, nhà Tiền Lê và nhà Lý với các
dấu ấn lịch sử: thống nhất giang sơn, đánh Tống - dẹp Chiêm và phát tích quá
trình định đô Hà Nội.
Sau này các triều đại nhà Trần, nhà Tây Sơn đều xây dựng
phòng tuyến ở vùng đất này để làm nên những chiến công vang dội. Hiện nay, Khu
di tích cố đô Hoa Lư nằm trong quần thể di sản thế giới Tràng An, trở thành một
điểm du lịch văn hóa lịch sử nổi tiếng ở Ninh Bình.
Ngoại giao với phương Bắc
Để tránh cuộc đụng độ, năm Nhâm Thân 972, Đinh Tiên Hoàng
sai con là Đinh Liễn sang cống nhà Tống Trung Quốc.
Năm 975, vua nhà Tống sai sứ sang phong cho Tiên Hoàng làm
Giao Chỉ quận vương và phong cho Nam Việt vương Đinh Liễn làm Tĩnh Hải quân Tiết
độ sứ An Nam đô hộ. Từ đó Đại Cồ Việt giữ lệ sang triều cống phương Bắc. Như vậy
bên ngoài vua Đinh bên ngoài thì xưng phiên thuộc nhưng trong nước thì vẫn xưng
danh Đế.
Từ năm Thái Bình thứ 7 (976), thuyền buôn của các nước ngoài
đến dâng sản vật của nước họ tại kinh đô Hoa Lư để kết mối giao thương.
“Đế vương dấy nghiệp, không có ai là không nhờ ở mệnh trời.
Nhưng, thánh nhân không bao giờ cậy có mệnh trời mà không làm hết phận sự của
mình. Khi việc lớn đã thành thì lại càng phải lo nghĩ cách đề phòng. Sửa sang lễ
nhạc, hình án và chính sự là để phòng giữ lòng người. Đặt nhiều lần cửa thành
và đánh hiệu canh là để phòng kẻ hung bạo. Lòng dục không cùng, việc đời vô bờ
vô bến, không thể không đề phòng trước được. Đó là cách nghĩ xa cho đời sau,
mưu tính cho con cháu”.
Tuy nhiên, là người xưng Đế đầu tiên của kỉ nguyên độc lập tự
chủ và thống nhất, mọi việc mà Đinh Tiên Hoàng đã làm đều chỉ mới có ý nghĩa mở
đầu. Một số Nho sĩ đời sau lấy khuôn mẫu chặt chẽ của thời đại họ làm chuẩn để
đánh giá, đã có ý chê Đinh Tiên Hoàng sơ sài trong việc trị nước. Những lời chê
ấy quả là không sai nhưng thật khó mà nói là đúng.
Vua Đinh Bộ Lĩnh không phải là danh tướng chống xâm lăng, nhưng,
võ công oanh liệt của ông thực sự đã góp phần rất to lớn vào sự nghiệp giữ nước.
Từ đây, độc lập dân tộc và thống nhất quốc gia luôn luôn gắn bó chặt chẽ với
nhau, trở thành hai mặt bản chất nhất, nổi bật nhất của lịch sử nước ta. Thắng
lợi của mặt này là tiền đề, là cơ sở thắng lợi của mặt kia và ngược lại.
Năm 979, vua Đinh Bộ Lĩnh bị phản thần là Đỗ Thích giết hại. Ông
mất khi triều Đinh mới được hơn mười năm, khi vận nước đang bắt đầu lâm nguy bởi
mưu đồ bành trướng của nhà Tống ở phương Bắc.
Vua Đinh Tiên Hoàng có con trưởng là Đinh Liễn, nhưng lại lập
con út Hạng Lang làm Thái tử. Đầu năm Kỷ Mão 979, Đinh Liễn tức giận sai người
giết Hạng Lang. Theo chính sử, tháng 11 (âm lịch) năm đó, viên hoạn quan là Đỗ
Thích, mơ thấy sao rơi vào miệng, tưởng là điềm báo được làm vua nên đã giết chết
cả Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn.
Đinh Tiên Hoàng làm vua được 12 năm, thọ 56 tuổi. Ông được
táng ở sơn lăng Trường Yên, kinh đô Hoa Lư.
Gần đây, một số nhà nghiên cứu lịch sử đưa ra giả thuyết: Đỗ
Thích không phải là thủ phạm giết vua. Theo nhà giáo Hoàng Đạo Thuý và một số
nhà nghiên cứu hiện nay, Đỗ Thích không thể làm chuyện này.
Thích chỉ là một viên hoạn quan, chức nhỏ, sức mọn, không hề
có uy tín hay vây cánh. So với Thích, trong triều có các bạn của vua Đinh như
Nguyễn Bặc, Đinh Điền, Lưu Cơ,... đều nắm trọng quyền, đủ cả văn lẫn võ. Vì vậy
ông không thể mơ tưởng việc sẽ khuất phục được các đại thần nhà Đinh để ngồi
yên trên ngai vàng.
Sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư bản kỉ, quyển 1, có chép:
Trước kia, khi vua [Đinh Tiên Hoàng] còn hàn vi, thường ra
sông Giao Thủy [ở Ninh Bình] để đánh cá. Có lần kéo lưới, bắt được viên ngọc
khuê to, nhưng lại lỡ làm va vào mũi thuyền, khiến bị mẻ mất một góc. Đêm ấy,
nhà vua vào ngủ nhờ ở chùa Giao Thủy, để viên ngọc ở dưới đáy giỏ cá. Đang khi
nhà vua ngủ say, thấy giỏ cá có ánh sáng lạ phát ra, nhà sư của chùa Giao Thủy
bèn gọi Nhà vua dậy để hỏi cho ra duyên cớ. Nhà vua cứ tình thực mà kể, lại còn
lấy viên ngọc cho nhà sư xem. Xem xong, nhà sư than rằng: "Ngày sau, anh sẽ
phú quý không biết kể thế nào cho hết, nhưng tiếc là phúc đức không được bền
lâu..."
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói:
"Đế vương dấy nghiệp không ai không nhờ ở trời. Nhưng
thánh nhân không cậy có mệnh trời mà làm hết phận sự của mình. Việc đã thành, lại
càng lo nghĩ đề phòng. Sửa sang lễ nhạc hình án chính sự là để phòng giữ lòng
người. Đặt nhiều lần cửa, đánh hiệu canh là đề phòng kẻ hung bạo. Bởi vì lòng dục
không cùng, việc đời không bến, không thể không đề phòng trước… Cho nên Tiên
Hoàng không được trọn đời là do chưa làm hết việc người, không phải mệnh trời
không giúp. Cũng vì vua không giữ được trọn đời khiến cho cái thuyết sấm đồ đắc
thắng, đời sau không thể không bị mê hoặc vì điều đó."
Nhận định của các sử gia:
Nhà sử học Lê Văn Hưu nhận xét:
"Tiên Hoàng nhờ có tài năng sáng suốt hơn người, dũng cảm
mưu lược nhất đời, đương lúc nước Việt ta không có chủ, các hùng trưởng cát cứ,
một phen cất quân mà mười hai sứ phục hết. Vua mở nước dựng đô, đổi xưng Hoàng
Đế, đặt trăm quan, lập sáu quân, chế độ gần đầy đủ, có lẽ ý Trời vì nước Việt
ta mà sinh bậc thánh triết..."
Nhà sử học Ngô Sĩ Liên nhận xét:
"Vận trời đất, bí rồi ắt thái, Bắc Nam đều cùng một lẽ ấy.
Thời Ngũ đại bên Bắc triều Trung Quốc suy loạn rồi Tống Thái Tổ nổi lên. Ở Nam
triều nước ta, 12 sứ quân phân chia quấy nhiễu, rồi Đinh Tiên Hoàng nổi lên.
Không phải là ngẫu nhiên mà do vận trời vậy."
Nhà sử học Phan Huy Chú trong "Lịch triều hiến chương
loại chí" nhận xét:
"Xét nước ta từ thời Hùng Vương mới bắt đầu thông hiếu
với Trung Quốc nhưng danh hiệu còn nhỏ không được dự vào hàng chư hầu triều hội...
đến khi Đinh Tiên Hoàng bình định các sứ quân, khôi phục mở mang bờ cõi, bấy giờ
điển lễ, sách phong của Trung Quốc mới cho đứng riêng là một nước."
Nhà sử học Ngô Thì Sĩ trong "Đại Việt sử ký tiền
biên" nhận xét:
"Tiên Hoàng dấy lên từ một người áo vải, một lần nổi
lên dẹp được 12 sứ quân. Rồi dựng nước, dựng kinh đô, đổi niên hiệu, chính ngôi
vua. Võ công vang khắp, văn hóa đều đổi mới..."
Sử gia Ngô Sỹ Liên trong Đại Việt sử ký toàn thư nhận xét:
"Vua tài năng sáng suốt hơn người, dũng cảm mưu lược nhất
đời, quét sạch các hùng trưởng... song không biết dự phòng, không giữ được trọn
đời, tiếc thay!"
Lê Tung trong nhận xét trong "Việt giám thông khảo tổng
luận":
"Đinh Tiên Hoàng nhân khi nhà Ngô loạn lạc mất nước, dẹp
được Mười hai sứ quân, trời cho người theo, nhất thông bờ cõi, dùng bọn Đinh Điền,
Nguyễn Bặc, Lưu Cơ, Trinh Tú làm người phù tá, sáng chế chiều nghi, định lập
quân đội, vua chính thống của nước Việt ta thực bắt đầu từ đấy. Kể về mặt dẹp
giặc phá định, thì công to lắm."
Quốc công Tiết chế Trần Hưng Đạo cũng nói với Vua Trần Anh
Tông rằng:
Thời Đinh Lê, dùng được người hiền lương, đất phương Nam mới
mạnh mà phương Bắc thì mệt mỏi suy yếu, trên dưới cùng lòng, lòng dân không
chia, xây thành Bình Lỗ mà phá được quân Tống.
Đinh Tiên Hoàng là người có công đánh dẹp loạn 12 sứ quân,
thống nhất giang sơn và trở thành hoàng đế đầu tiên của Việt Nam sau 1000 năm Bắc
thuộc. Đại Cồ Việt là nhà nước mở đầu cho thời đại độc lập, tự chủ, xây dựng chế
độ quân chủ tập quyền ở Việt Nam.
Đinh Bộ Lĩnh mở nước Đại Cồ Việt, lập đô kinh đô Hoa Lư, lấy
niên hiệu Thái Bình với tư cách người đứng đầu một vương triều bề thế: Thời kỳ
phục quốc của Việt Nam, từ họ Khúc chỉ xưng làm Tiết độ sứ, tới Ngô Quyền xưng
vương và tới vua Đinh xưng làm hoàng đế.
Sau một số vị vua xưng Đế (chưa xưng Hoàng Đế) từ trước và
giữa thời Bắc thuộc rồi bị thất bại trước hoạ ngoại xâm, đến thời nhà Đinh, người
cầm quyền Việt Nam mới thực sự vươn tới đỉnh cao ngôi vị và danh hiệu, khẳng định
vị thế vững chắc của quốc gia độc lập, thống nhất qua các triều đại Đinh – Lê –
Lý – Trần và buộc các điển lễ, sách phong của cường quyền phương Bắc phải công
nhận là một nước độc lập.
Từ Đinh Bộ Lĩnh trở về sau, các Vua không xưng Vương hay Tiết
độ sứ nữa mà đều xưng Hoàng đế như một dòng chính thống. Đinh Tiên Hoàng là vị
hoàng đế đặt nền móng sáng lập nhà nước phong kiến trung ương tập quyền đầu
tiên ở Việt Nam, vì thế mà ông còn được gọi là người mở nền chính thống cho các
triều đại phong kiến trong lịch sử.
Tôn vinh và thờ phụng
Hầu hết các thành phố, thị xã ở Việt Nam đều có đường mang
tên Đinh Tiên Hoàng. Một số nơi có đường mang tên Đinh Bộ Lĩnh như ở Thành phố Hồ
Chí Minh, thị xã La Gi, thị xã Hương Trà, thành phố Nam Định, Thủ Dầu Một, Mỹ
Tho, thành phố Lai Châu, thành phố Bạc Liêu, thành phố Huế, thành phố Quy Nhơn,
thành phố Cao Lãnh, thành phố Lào Cai,... Nhiều trường học được đặt tên Đinh
Tiên Hoàng. Một số vận động viên thể thao khi gia nhập quốc tịch Việt Nam cũng
lấy họ theo vua như Đinh Hoàng La, Đinh Hoàng Max (bóng đá), Đinh Hoàng Chai
(bóng chuyền).
Tháng 3 năm 2011, chiếc tàu hộ tống mang tên lửa lớp Gepard
3.9 đầu tiên của Hải quân nhân dân Việt Nam được đặt tên là Đinh Tiên Hoàng.
Trong văn học, nghệ thuật
Ngoài các tư liệu chính sử, trong văn học Việt Nam có nhiều
tác phẩm nổi tiếng viết về Đinh Bộ Lĩnh tiêu biểu như: Cờ lau dựng nước, Trận
chiến trong thung lũng, Hoàng đế cờ lau, Sử ca Đinh Bộ Lĩnh, truyền thuyết sông
Hoàng Long, truyền thuyết con ngựa đá, bóng cờ lau, Giao châu thất hùng...
Trong đó có tác phẩm đã được chuyển đổi thành phim nhựa như "Trận chiến
trong thung lũng", "Hoàng đế cờ lau" và "Đinh Tiên Hoàng đế".
Trong dân gian, Đinh Bộ Lĩnh còn được xưng tụng với những tên gọi: anh hùng Vạn
Thắng Vương, Đại Thắng Minh Hoàng đế... Hình ảnh Đinh Bộ Lĩnh thời niên thiếu
đã đi vào thơ ca tuổi trẻ Việt Nam từ thời tiểu học:
"Bé thì chăn nghé, chăn trâu
Trận bày đã lấy bông lau làm cờ
Lớn lên xây dựng cơ đồ
Mười hai sứ tướng bây giờ đều thua"
Phong cảnh cố đô Hoa Lư
Các di tích thờ Vua Đinh Tiên Hoàng rất đa dạng và có ở nhiều
vùng miền khác nhau như ở Ninh Bình, Nam Định, Hà Nam, Thái Bình, Hà Nội, Lạng
Sơn, Bắc Kạn, Phú Thọ, Thanh Hóa, Hòa Bình, Quảng Bình, Đà Nẵng, Đắc Lắc, Hưng
Yên, Quảng Nam,... Hơn 500 di tích thờ vua Đinh Tiên Hoàng và các nhân vật lịch
sử thời nhà Đinh ở Việt Nam đã phản ánh sâu rộng sự nghiệp và tình cảm đặc biệt
mà nhân dân dành cho vị vua này.
Ninh Bình hiện còn ít nhất 23 di tích thờ Đinh Tiên Hoàng,
và nhiều nơi phối thờ Vua với các vị thần khác. Các đền thờ Vua đều nằm ở phía
bắc tỉnh Ninh Bình (trong khi các đền thờ Lê Đại Hành lại nằm ở nửa phía nam của
tỉnh này).
Các đền, đình tiêu biểu như: đền Vua Đinh Tiên Hoàng, đình
Yên Trạch, đình Yên Thành, Phủ Đại ở khu di tích cố đô Hoa Lư, xã Trường Yên;
đình Trung Trữ xã Ninh Giang, Hoa Lư; Núi Kỳ Lân và đền thờ Đinh Bộ Lĩnh ở xã
Gia Phương; đình Viến và đền thung Lau ở động Hoa Lư; đình Kính Chúc và đình
Thượng Kính Chúc, xã Gia Phú, huyện Gia Viễn; di tích Đàn Tế Trời ở đồi Thờ, xã
Quỳnh Lưu; đền Vua Đinh ở thôn Lão Cầu, xã Văn Phú; các đình Mỹ Hạ, đình Ngọc
Nhị, đình Ngọc Ba ở xã Gia Thủy và các đình thôn Lược, đền Bóng, đình Ngọc Mỹ
thôn Me, đình Vua làng Xát, đền làng Đông Thịnh ở xã Sơn Lai huyện Nho Quan.
Quần thể di tích thờ Vua Đinh ở Nam Định gồm có đền vua Đinh
ở xã Yên Thắng; đình Viết ở xã Yên Chính; đình Thượng Đồng, đền Thượng Thôn,
đình Cát Lũy, đình Tân Cầu ở xã Yên Tiến, đình Đằng Động ở xã Yên Hồng Ý Yên;
đình Bườn xã Mỹ Thắng, huyện Mỹ Lộc; đình làng việt cổ Bách Cốc, Vụ Bản; đền
vua Đinh ở Giao Thủy, Khu tưởng niệm Vua Đinh ở xã Xuân Kiên, Xuân Trường… Hà
Nam có đền Lăng ở Thanh Liêm; đình Lạc Nhuế, đền Thượng ở xã Đồng Hóa và Miếu
Trung làng Đặng Xá ở xã Văn Xá, đình Phương Khê ở xã Ngọc Sơn (Kim Bảng); đền
Ung Liêm (thành phố Phủ Lý); đình Đôn Lương, phường Yên Bắc (Duy Tiên); đình Yến
ở xã Thanh Hà (Thanh Liêm)… Hà Nội có đền Đinh Tiên Hoàng Đế ở làng Vài, xã Hợp
Thanh huyện Mỹ Đức với lễ hội mở hàng năm, đền Bách Linh ở Hòa Nam, Ứng Hòa đúc
tượng thờ Vua Đinh cùng bài vị thờ 99 vị thần khác hay đền thờ ở làng Cổ Điển,
Tứ Hiệp, Thanh Trì…
Xa hơn là Đà Nẵng có đền thờ vua Đinh ở xã Hoà Khương, Hoà
Vang; Quảng Nam có tượng Vua Đinh trong nhà thờ Tộc Đinh ở Hạ Nông, Điện Bàn; Lạng
Sơn có đình Pác Mòng thờ Vua Đinh Tiên Hoàng ở thôn Quảng Trung xã Quảng Lạc,
thành phố Lạng Sơn; Thanh Hóa có đền Vua Đinh ở làng Quan Thành, Thọ Tân, Triệu
Sơn; Bắc Kạn có đền Phja Đeng thuộc xã Cường Lợi huyện Na Rì thờ Vua Đinh. Hưng
Yên có đình Phù Liệt ở xã Thắng Lợi, Văn Giang thờ Vua Đinh và ngũ vị đại vương
giúp vua dẹp loạn. Thái Bình có miếu Vua Đinh ở xã Song An, Vũ Thư và chùa Kỳ
Bá ở thành phố Thái Bình; Vĩnh Phúc có chùa An Hòa, Vĩnh Yên với ngôi tổ đường
thờ Vua Đinh Tiên Hoàng; Phú Thọ có đình Nông Trang là nơi thờ Đinh Bộ Lĩnh gắn
với sự kiện hưởng ứng của dân địa phương khi vua về đây dẹp 2 sứ quân họ Kiều;
Người Mường Hòa Bình thờ vua Đinh ở đình Sóc Bai (hay đình Xác Bái) ở xã Yên Bồng,
Lạc Thủy; Đăk Lăk có đình Cao Phong ở Hòa Thắng, Buôn Ma Thuột; Quảng Bình có
nơi thờ Vua Đinh ở Đồng Hới; Thừa Thiên Huế có miếu Lịch Đại Đế vương thờ Vua
Đinh cùng với các vị Vua Hồng Bàng là những vị vua khai sáng... Tượng đài vị
vua anh hùng Đinh Bộ Lĩnh ở Thành phố Hồ Chí Minh được dựng ở suối Tiên và công
viên Tao Đàn. Tại trung tâm thành phố Ninh Bình đã xây dựng khu quảng trường
Đinh Tiên Hoàng Đế.
Nhiều di sản văn hóa phi vật thể liên quan đến tín ngưỡng thờ
cúng Vua Đinh Tiên Hoàng như: Tục đánh quân ở làng Yên Thư xã Yên Phương (Yên Lạc,
Vĩnh Phúc) lại có các trò "Mục đồng đánh quân" và "Chợ mục đồng"
suy tôn tinh thần thượng võ của Đinh Bộ Lĩnh khi qua đây đánh dẹp sứ quân Nguyễn
Khoan ở Vĩnh Mỗ.
Tục ném đá ở vùng Cát Ngạn (gồm 8 xã ở Thanh Chương, Nghệ
An) mà trọng tâm là ở Cát Văn của người dân Thanh Chương vào dịp Tết Đoan ngọ
hàng năm để tưởng nhớ tinh thần thượng võ của vua Đinh Bộ Lĩnh thuở nhỏ khi người
cha còn làm thứ sử Hoan Châu.
Các lễ hội cố đô Hoa Lư, lễ hội động Hoa Lư ở Ninh Bình cũng
diễn lại tích cờ lau tập trận của Đinh Bộ Lĩnh thuở nhỏ. Trò Xuân Phả ở Thanh
Hóa và nghệ thuật hát chèo là những di sản văn hóa khởi nguồn từ thời Vua Đinh
Tiên Hoàng trị vì.
Gia đình và hậu cung, hậu nhân của vua Đinh Tiên Hoàng
Cha: Đinh Công Trứ, Mẹ: Đàm Thiềm Nương, Chú: Đinh Dự
Vợ: Theo chính sử có 5 Hoàng hậu: Đan Gia Hoàng hậu, Trinh
Minh Hoàng hậu, Kiểu Quốc Hoàng hậu, Cồ Quốc Hoàng hậu, Ca Ông Hoàng hậu.
Theo dã sử đã thấy 5 Hoàng hậu:
Hoàng Thị Thi: là tên gọi của một Hoàng hậu nhà Đinh được hậu
thế ghi nhận và tôn vinh ở chùa Bà Ngô, thuộc quần thể di tích Cố đô Hoa Lư.
Bà sinh ra thái tử Đinh Hạng Lang, hai người con riêng của
Bà với họ Ngô đều được gả cho hai con của Vua Đinh với người vợ cả là Đinh Liễn
và công chúa Phất Kim. Bà là người có số phận bi thảm khi con trai Hạng Lang của
bà rồi Vua Đinh bị sát hại, con riêng Ngô Nhật Khánh của bà bị bão dìm chết trận.
Khi Đinh Toàn lên ngôi thì quyền lực về tay Đại Thắng Minh
Hoàng hậu Dương Vân Nga, bà đã rời bỏ Hoàng cung về ngôi chùa phía Bắc kinh đô
Hoa Lư tu hành. Ngôi chùa đó được người Việt gọi là chùa Bà Ngô.
Đinh Thị Tỉnh: là Đệ nhị cung phi trong Hoàng cung nhà Đinh.
Bà là người có nhan sắc, tài nghệ văn chương và tinh thông võ nghệ. Bà được thờ
ở đền Thánh Mẫu, xã Đông Sơn, Đông Hưng, Thái Bình. Trong sắc phong ở đền thờ
hoàng hậu triều Đinh có ghi: "Trinh Thục hoàng hậu" và "Đệ nhị
cung phi".
Trong số 5 bà hoàng hậu triều Đinh, hoàng hậu thứ 2 có tên
là Trinh Minh Hoàng hậu. Rất có khả năng tên của 2 vị này là 1 người (Trinh
Minh – Trinh Thục). Tương tự như Trường hợp của Bà tổ nghề may Nguyễn Thị Sen
thần tích ghi chép là Tứ phi Hoàng hậu, đối chiếu với tên gọi 5 Hoàng hậu tương
đương với tên gọi Cồ Quốc.
Dương Vân Nga: là hoàng hậu của 2 vua Đinh Tiên Hoàng và Lê
Đại Hành trong lịch sử Việt Nam. Bà đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc
chuyển giao quyền lực từ nhà Đinh sang nhà Tiền Lê.
Người con trai của bà với Đinh Tiên Hoàng tên Đinh Toàn, là
vua cuối của nhà Đinh còn người con gái của bà với Lê Đại Hành là Lê Thị Phất
Ngân trở thành hoàng hậu của Lý Thái Tổ, mẹ vua Lý Thái Tông sau này. Vì là một
người đàn bà quyền lực của nhiều triều đại, sử sách thường gọi bà với cái tên
trang trọng là Dương hậu hay Dương thái hậu.
Hiện nay, trong các đền thờ, tên đường và các tác phẩm văn học
nghệ thuật, người Việt gọi bà là Thái hậu Dương Vân Nga. Theo giai thoại dân
gian, Dương Vân Nga là con gái của ông Dương Thế Hiển, quê ở vùng Nho Quan,
Ninh Bình. Cái tên Vân Nga là ghép từ Vân Long và Nga My là tên thôn quê cha mẹ
bà.
Từ khi Vua Đinh và Thái tử Đinh Hạng Lang (con trai của
Hoàng hậu Đan Gia) bị sát hại, Dương Vân Nga mới thực sự làm chủ Hậu cung với
tư cách là mẹ của Vua mới Đinh Toàn. Lê Hoàn sau khi chiến thắng quân Tống lập
nên nhà Tiền Lê. Dương Vân Nga trở thành một trong năm Hoàng hậu của Lê Đại
Hành.
Nguyễn Thị Sen: là tứ phi Hoàng hậu của vua Đinh Tiên Hoàng
trong lịch sử Việt Nam, Bà được coi là bà tổ nghề may. Bà quê quán ở làng Trạch
Xá, xã Hòa Lâm huyện Ứng Hòa, Hà Nội. Theo thần tích đền thờ tổ nghề ở Trạch
Xá, Bà tổ của nghề may là Nguyễn Thị Sen, một người con gái xinh đẹp, đảm đang
của làng Trạch Xá. Với sự khéo léo và sáng tạo, bà đã giúp các cung nữ phát triển,
sáng tạo được nghề may trong cung vua.
Sau khi Vua Đinh Tiên Hoàng mất, quyền lực hậu cung rơi vào
tay Dương Vân Nga và Lê Hoàn, bà đã từ giã hoàng cung cùng với con gái trở về
quê hương truyền dạy nghề cho nhân dân trong làng. Khi mất bà được lập đền thờ
và tôn làm bà tổ nghề áo dài truyền thống.
Dương Thị Nguyệt: là Hoàng hậu được thờ ở thôn Đặng Xá, xã
Văn Xá, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam. Bà là người đã sinh ra công chúa Đinh Thị
Ngọc Nương cũng được dân lập đền thờ. Bà được xem là người đã được Vua Đinh
Tiên Hoàng giao về xứ Thanh truyền dạy trò Xuân Phả cho dân làng. Hoàng hậu
Dương Thị Nguyệt còn được thờ ở đình Tam Chúc (Hà Nam) và Nghè Xuân Phả ở Thanh
Hóa.
Hậu nhân của vua Đinh Tiên Hoàng:
Hoàng tử: Về các con Vua Đinh Tiên Hoàng, các sử chép thống
nhất có ba con trai Đinh Liễn, Đinh Hạng Lang, Đinh Toàn.
Công chúa: Sử không chép rõ ràng nhưng căn cứ vào các thần
tích tại nhiều đền thờ có thể thấy ít nhất vua có năm con gái là:
Công chúa Phất Kim (được thờ ở đền thờ công chúa Phất Kim
khu di tích cố đô Hoa Lư)
Công chúa Phù Dung (được thờ ở đình Phù Sa, xã Viên Sơn thị
xã Sơn Tây Hà Nội) và phủ Phù Dung ở thôn Yên Trạch, cố đô Hoa Lư.
Công chúa Minh Châu là vợ của Trần Thăng, em sứ quân Trần
Lãm
Công chúa Liên Hoa (được thờ ở đình Trâm Nhị, Ân Thi, Hưng
Yên).
Công chúa Ngọc Nương (được thờ ở thôn Đặng Xá, Kim Bảng, Hà
Nam).
Ths Nguyễn Thy Ngà tổng hợp InterNet