Tản viên Sơn Thánh – danh xưng sinh thời là Nguyễn Tuấn (dân gian gọi là Sơn tinh), một trong bốn vị thần Tứ bất tử của Thần đạo Việt Nam. Thánh được cho là ngự tại núi Tản Viên Ba Vì, biểu tượng cho ước vọng chinh phục tự nhiên, bảo vệ non sông và thần tiên hòa mình cùng dân tộc.
Dãy Ba Vì là một dãy núi đất và đá vôi lớn trải
trên một phạm vi rộng chừng 5000 ha ở hai huyện Ba Vì, Thạch
Thất thuộc thành phố Hà Nội và thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình.
Trên Ba Vì có nhiều ngọn núi, nhưng nổi tiếng nhất là Tản
Viên (còn gọi là Ngọc Tản, Tản Sơn, hoặc Phượng Hoàng Sơn). Núi này cao 1227m,
gần đỉnh thắt lại, đến đỉnh lại xòe ra như chiếc ô nên gọi là Tản. Núi Tản là
nơi thờ Sơn thánh Tản Viên.
Ngoài Tản Viên, trên Ba Vì còn có các núi cao là Ngọc Lĩnh,
Tương Miêu, U Bò, Núi Tre, Ghẹ Đùng, Trăm Voi, Ngọc Hoa (đặt theo tên của công
chúa con vua Hùng thứ 18 được gả cho Sơn thánh Tản Viên) và núi Vua. Núi Vua
cao tới 1296m. Trên đỉnh núi Vua có đền thờ Đức Hồ Chí Minh.
Theo truyền thuyết, vào thời thần thánh còn ở chung để dẫn dắt
loài người, thần núi Tản Viên, Sơn thánh Tản Viên, còn được gọi là Sơn Tinh, lấy
công chúa Ngọc Hoa, con Hùng Duệ Vương (Hùng Vương thứ 18). Cuộc hôn nhân này dẫn
đến cuộc đấu truyền kiếp giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh.
Sơn thánh Tản Viên giúp vua Hùng đánh giặc, đi khắp nơi dạy
nhân dân làm ăn sinh sống như: dạy làm ra lửa, làm ruộng, săn bắn, đánh bắt cá,
luyện võ, dệt lụa, múa hát và mở hội...
Khu vực quanh núi Ba Vì, nhiều tên đất, tên làng, tên vạt đồi
đồng nội, dòng sông, khe suối, địa danh, địa hình, địa vật, đầm hồ,
bờ bãi, đình, đền, miếu mạo và con người gắn liền với sự
tích Sơn Tinh, Thủy Tinh.
Việc thờ Sơn thánh Tản Viên có từ rất lâu đời. Khu vực quanh
núi Ba Vì hiện có đến gần 100 ngôi đình, đền thờ Sơn Tinh. Người dân đến đây cầu
đảo, cúng khấn khi hạn hán, mưa lũ, ngăn ngừa họa lớn, đều thấy hết sức
linh ứng và hiệu nghiệm.
Trải các triều đại quân chủ Việt Nam, Tản Viên Sơn Thánh luôn được coi
là bậc thần đứng đầu trong các vị thần tối linh của nước Việt. Núi
Tản Viên được coi là Núi tổ của Việt Nam.
Năm 1836, vua Minh Mạng (hoàng đế thứ 2 triều Nguyễn, trị vì
1820 – 1841) cho đúc Cửu Đỉnh làm biểu tượng cho uy thế và sự bền vững của
triều đình. Hình núi Tản Viên là một trong chín núi lớn được khắc vào Cửu đỉnh
(Thiên Tôn, Ngự Bình, Thương Sơn, Hồng Lĩnh, Tản Viên, Duệ Sơn, Đại Lãnh, Hải
Vân, Đèo Ngang).
Đền Tản Viên Sơn Thánh nằm trên địa bàn hai xã Minh Quang và
Ba Vì, thuộc huyện Ba Vì, Hà Nội. Đền thờ Đức Thánh Tản Viên và hai người em
thúc bá là Cao Sơn (Sùng công) và Quý Minh (Hiển công).
Khu đền Tản Viên Sơn Thánh gồm ba ngôi đền: đền Thượng, đền
Trung và đền Hạ.
Đền Hạ
Đền Hạ còn có tên gọi là Tây cung (trong hệ thống Tứ cung của xứ Đoài: Bắc Cung
thuộc xã Tam Hồng, huyện Vĩnh Lạc, Vĩnh Phúc; Nam Cung thuộc
xã Tản Lĩnh; Tây Cung thuộc xã Minh Quang, huyện Ba Vì, Hà
Nội; Đông Cung thuộc phường Trung Hưng, thị xã Sơn Tây, Hà Nội).
Đây là ngôi đền cổ tọa lạc dưới chân núi Tản Viên, ven bờ
sông Đà thuộc xã Minh Quang. Theo truyền thuyết, đền Hạ xuất hiện muộn hơn so với
đền Trung và đền Thượng.
Vào đầu thế kỷ 18 tại đây đã có đền Hạ. Ngôi đền hiện nay được
xây dựng lại vào thế kỷ 19 và được tu sửa vào năm 1998. Đền Hạ thờ Tam vị đức
thượng đẳng thần: Tản Viên Sơn Thánh, Cao Sơn Đại Vương, Quý Minh Đại Vương.
Kiến trúc của đền Hạ gồm: Tam quan, Điện thờ, nhà thờ Mẫu và
công trình phụ trợ.
Tam quan đền Hạ có 3 cổng. Hai bên cổng chính có 2 pho tượng
Hộ pháp. Trên cổng chính có mái 2 tầng, 8 mái. Giữa hai tầng mái là bốn chữ Hán
"Quốc sơn từ Hạ".
Phía sau Tam quan là một sân, bên trong có tấm bia đá ghi
dòng chữ “Tản Viên từ ký” (ghi chép về đền thờ Tản Viên), dựng vào năm
1848, triều Nguyễn. Nội dung bia cho biết đền Hạ được xây dựng quy mô lớn, vua
Tự Đức (hoàng đế thứ 4 triều Nguyễn, trị vì năm 1847- 1883) đã cấp hai nghìn
quan tiền để xây dựng đền.
Điện thờ đền Hạ kiểu chữ “tam” gồm Tiền đường, Trung đường
và Hậu đường.
Trong đền có nhiều bức chạm trổ mô phỏng hình tượng mặt trời, tia sét, chim phượng,
con nghê, đao mác, lửa...theo phong cách nghệ thuật điêu khắc cuối thế kỷ 17, đầu
thế kỷ 18.
Tòa Tiền đường đền Hạ, Quần thể đền Tản Viên Sơn Thánh, Ba Vì, Hà Nội
Tam quan đền Hạ, Quần thể đền Tản Viên Sơn Thánh, Ba Vì, Hà Nội
Đền Hạ thờ đức Sơn Thánh Tản Viên
Đền Trung
Đền Trung còn gọi là Trung cung, tọa lạc ở lưng chừng núi
phía Tây Ba Vì, cao độ khoảng 500m, thuộc địa phận xã Minh Quang. Đền được xây
dựng từ triều Lý, đền triều Nguyễn, nhiều lần được trùng tu lại. Đây là ngôi đền
có quy mô lớn và có vị thế đẹp nhất trong các ngôi đền thờ Tản Viên ở sườn Tây
núi Ba Vì.
Đền Trung hướng về phía Tây, gồm: Tam quan, Chính điện, đền
Mẫu.
Tam quan đền Trung gồm 3 ô vòm cửa, có mái che bên trên. Ô
vòm cửa chính giữa có hai trụ biểu nhô ra phía trước. 2 ô vòm cửa hai bên là
vòm tường. Chính điện có kiến trúc kiểu chữ “tam” gồm Tiền đường, Trung đường
và Hậu đường.
Tiền đường, 5 gian.
Tại đây còn lưu dấu tích lại bài thơ chữ Hán vịnh cảnh đền
Trung. Nằm ở bên phải đền Trung có đền Lang hay đền Lang Mẫu, 3 gian, bên trong
đặt ngai thờ bà Mai Thị, mẹ nuôi của Tản Viên.
Trung đường, gian giữa bài trí tượng bốn vị quan ở tư thế đứng,
mũ áo cân đai chỉnh tề, đứng hai bên đối diện nhau, biểu thị bốn vị đại thần trấn
ở bốn cung Đông - Tây - Nam - Bắc.
Hậu đường, gian chính giữa là tượng thờ Tản Viên, hai bên là
tượng Cao Sơn đại vương và Quý Minh đại vương.
Tam quan đền Trung, Quần thể đền Tản Viên Sơn Thánh, Ba Vì, Hà Nội
Tiền đường đền Trung, Quần thể đền Tản Viên Sơn Thánh, Ba Vì, Hà Nội
Đền Trung hay còn gọi là Trung Cung Sơn Thánh Tản Viên
Đền Thượng
Đền Thượng hay còn gọi là Chính cung Thần điện, nằm trên độ
cao 1227m, thuộc địa phận xã Ba Vì. Theo truyền thuyết, đền có từ thời An Dương
Vương (vị vua lập triều Âu Lạc, trị vì 257- 208 TCN/208 – 179 TCN).
Đền nằm gần đỉnh núi, tại vị trí thắt cổ bồng, xòe ra như
cái tán. Đền Thượng được khởi dựng lại vào năm 1993. Gần đây được trung tu lớn
để có diện mạo như ngày nay.
Đền có quy mô nhỏ, hướng theo hướng Nam, là ngôi đền có lối
kiến trúc gồm các tòa nhà nhỏ, mặt sau dựa vào vách đá, kéo dài theo triền núi.
Chính giữa ngôi Tam Bảo là tượng Đức Thánh Tản ngự trong
long ngai sơn son thiếp vàng. Bên tả là ban thờ Đức Thánh Trần Hưng Đạo và bên
hữu là ban thờ Tam toà Thánh Mẫu (Mẫu Thượng ngàn).
Phối cảnh đền Thượng, Quần thể đền Tản Viên Sơn Thánh, Ba Vì, Hà Nội
Tam quan đền Thượng, Quần thể đền Tản Viên Sơn Thánh, Ba Vì, Hà Nội
Lối lên đền Thượng, Quần thể đền Tản Viên Sơn Thánh, Ba Vì, Hà Nội
Đền Thượng mới cải tạo lại, Quần thể đền Tản Viên Sơn Thánh, Ba Vì, Hà Nội
Ban thờ Tản Viên Sơn Thánh tại chính giữa Hậu điện đền Thượng, Quần thể đền Tản Viên Sơn Thánh, Ba Vì, Hà Nội
Đền Thượng Ba Vì Thờ Thánh Tản Viên Sơn
Ban thờ đức Thánh Trần tại Hậu điện đền Thượng, Quần thể đền Tản Viên Sơn Thánh, Ba Vì, Hà Nội
Ban thờ Mẫu Thượng ngàn tại Hậu điện đền Thượng, Quần thể đền Tản Viên Sơn Thánh, Ba Vì, Hà Nội
Qua sân Đền chính, leo thêm vài chục bậc đá tới đỉnh núi, điểm
cao nhất của núi Tản Viên.
Trên đỉnh núi có lầu bát giác. Trong lầu đặt tượng Địa mẫu, cạnh đó, ngoài trời
là ban thờ Mẫu Cửu Trùng Thiên…
Lầu đặt tượng Địa Mẫu và ban thờ Mẫu Cửu Trùng Thiên trên đỉnh Tản Viên
Mốc cao độ đỉnh núi Tản Viên, Ba Vì, Núi tổ của Việt Nam
Đền thờ Đức Hồ Chí Minh tại đỉnh núi Vua, Ba Vì, Hà Nội
Ban thờ Chính điện đền thờ Đức Thánh Hồ Chí Minh tại đỉnh núi Vua, Ba Vì, Hà Nội
Đặng Tú, Bộ môn KTCN, ĐHXD
Ths Nguyễn Thy Ngà đăng tải