Lý Thái Tông (chữ Hán: 李太宗 29 tháng 7 năm 1000 – 3 tháng 11 năm 1054) là vị hoàng đế thứ hai của triều đại nhà Lý trong lịch sử Việt Nam, cai trị trong 26 năm (1028–1054). Ông là một vị hoàng đế tài giỏi, triều đại của vua, sau đó là triều đại Vua Lý Thánh Tông con ngài, Vua Lý Nhân Tông cháu ngài là thời thịnh vượng của nhà Lý, sử gọi thời kỳ này là Bách niên Thịnh thế (百年盛世).
Hoàng đế Thái Tông được mô tả uy dũng hơn người, bách chiến
bách thắng, trải qua loạn ba vương mà lên ngôi, công danh rạng rỡ triều Lý. Ông
củng cố quyền lực cho nhà Lý, bên trong dùng chính sách hòa thân, gả công chúa
cho các quan Châu mục, bên cạnh đó còn dẹp loạn đảng làm phản như Loạn họ Nùng;
đồng thời Đế đánh dẹp Chiêm Thành, công tích uy nghi, tiền đề cho những triều đời
sau phát triển phồn thịnh.
Đối với quần thần, Thái Tông đã nhân từ, không xử tội chết
các Vương nổi loạn trong Loạn tam vương, không chỉ tha mà còn phục chức. Đối với
giặc ngoại như Chiêm Thành, vua ra lệnh không tùy tiện sinh sát, lệnh cấm cho
binh lính không được làm việc ác. Vua có lòng tin vào Phật giáo, nhân từ độ lượng,
chính là đức để truyền lâu dài cho hậu thế, như lời Ngô Sĩ Liên: "Tấm lòng
ấy của vua cũng như tấm lòng của Tống Thái Tổ chăng? Truyền ngôi được lâu dài
là phải lắm".
Sử gia đánh giá ông như Hán Quang Vũ Đế đánh đâu được đấy,
công sức giúp ổn định tình hình biên cương loạn lạc còn vượt hơn cả Đường Thái
Tông.
Thái Tông Hoàng đế tên thật là Lý Phật Mã (李佛瑪), tên
gọi khác là Lý Đức Chính (李德政), là đích trưởng tử của Lý Thái Tổ. Ông sinh vào ngày
29 tháng 7 năm 1000 tại kinh đô Hoa Lư, Ninh Bình, lúc đó vua Lý Thái Tổ vẫn
còn làm quan dưới triều nhà Tiền Lê.
Về thân mẫu của vua, chính sử Đại Việt sử ký toàn thư viết: "Mẹ
là hoàng hậu họ Lê, sinh vua vào ngày 26 tháng 6 năm Canh Tý, niên hiệu Ứng Thiên
năm thứ 7, năm 1000 thời Lê, ở phủ Trường Yên".
Các nhà nghiên cứu lịch sử, theo các thần tích, thần phả Hán
Nôm ở khu vực Cố đô Hoa Lư khẳng định, thân mẫu của vua Lý Phật Mã là Lê Thị Phất
Ngân, con gái vua Lê Đại Hành và hoàng hậu Dương Vân Nga. Như vậy, Vua chính là
cháu ngoại của Hoàng đế Lê Đại Hành và Thái hậu Dương Vân Nga.
Ông sinh ngày 26 tháng 6 âm lịch năm Canh Tý niên hiệu Ứng
Thiên thứ 7 thời Tiền Lê (tức 29 tháng 7 năm 1000) ở chùa Duyên Ninh trong kinh
đô Hoa Lư. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, khi ông mới sinh, ở phủ Trường Yên có
con trâu của nhà dân tự nhiên thay sừng khác, người có trâu ấy cho là điềm
không lành, lấy làm lo ngại. Có người giỏi chiêm nghiệm đi qua nhà người ấy cười
mà nói rằng: "Đó là điềm đổi mới thôi, can dự gì đến nhà anh" thì người
ấy mới hết lo. Tương truyền thuở nhỏ ông đã có 7 nốt ruồi sau gáy như chòm sao
Thất tinh Bắc Đẩu.
Khi còn nhỏ, cùng bọn trẻ con chơi đùa, có thể sai bảo được
chúng, bắt đi dàn hầu trước sau và hai bên như nghi vệ các quan theo hầu thiên
tử. Thái Tổ thấy thế vui lòng, nhân đó trách đùa rằng: Con nhà tướng nên bắt
chước việc quân, cần gì phải kẻ rước người hầu?, ông tuy còn ít tuổi nhưng trả
lời ngay rằng: Kẻ rước người hầu thì có xa lạ gì với con nhà tướng? Nếu xa lạ
thì sao ngôi vị không ở mãi họ Đinh mà lại về họ Lê, đều do mệnh trời thôi.
Thái Tổ kinh lạ, từ đấy càng yêu quý hơn.
Năm 1010, khi vua lên 10 tuổi thì triều đình nhà Lý dời kinh
đô từ Hoa Lư Ninh Bình về Thăng Long - Hà Nội.
Thái tử triều Lý
Năm 13 tuổi (1012), hoàng tử Lý Phật Mã được lập làm Đông
cung Thái tử, phong hiệu là Khai Thiên vương (開天王), lập phủ ngoài nội cung để làm
quen với các quan lại và dân chúng. Trong thời gian làm Thái tử, ông nhiều lần nhận
sắc chỉ làm tướng cầm quân dẹp loạn và đều lập chiến công.
Năm 1019, ông nhận sắc phong Nguyên soái, dẫn đại quân vào
nam đánh Chiêm Thành. Khi đại quân vượt biển, đến núi Long Tỵ, có rồng vàng hiện
ra trên thuyền ngự, ông đi đến đỡ lấy rồng rồi rồng tan biến, người đời cho là
điềm may.
Năm 1023, ông dẫn đại binh đi đánh Phong châu. Năm 1025, tiếp
tục dẫn binh đánh Diễn châu, lập được chiến công hiển hách, Thái Tổ Hoàng đế rất
hài lòng.
Năm 1027, thái tử dẫn binh lên phía bắc dẹp loạn châu Thất
Nguyên thuộc Lạng Sơn). Cùng năm ấy, ông ban áo ngự cho một đạo sĩ tên Trần Tuệ
Long (陳慧隆)
ở Nam Đế quán, đêm đó có ánh sáng vàng hiện lên khắp quán, Tuệ Long hoảng hồn tỉnh
dậy thì thấy bóng rồng vàng nổi bật trên mắc áo. Người đời cho rằng đấy là mệnh
trời, đến đây đều thấy phù hợp cả.
Thái tử nổi tiếng khắp kinh thành, bản tính nhân từ, sáng suốt
đĩnh ngộ, thông hiểu đại lược văn võ, còn như lục nghệ lễ nhạc, ngự xạ, thư số
không môn gì là không tinh thông am tường.
Biến loạn Tam vương
Năm 1028, Thái Tổ Hoàng đế băng hà, chưa tế táng xong, thì
các hoàng thân Vũ Đức vương, Dực Thánh vương và hoàng tử Đông Chinh vương đem
quân đến vây thành tranh ngôi của Thái tử.
Bấy giờ các quan đầu Triều là Lý Nhân Nghĩa xin Thái tử Phật
Mã cho đem quân ra thành quyết một trận thành bại. Khi quân dưới trướng của
Thái tử và quân các vương đối trận, Quan Vũ vệ tướng quân là Lê Phụng Hiểu rút
gươm ra chỉ vào Vũ Đức vương mà bảo rằng:
Các người dòm ngó ngôi cao, khi dễ tự quân, trên quên ơn
tiên đế, dưới trái nghĩa tôi con, vậy Phụng Hiểu xin dâng nhát gươm này!
Nói xong tướng quân Lê Phụng Hiểu dũng mãnh xông vào chém Vũ
Đức vương trên trận tiền. Quân dưới trướng các vương trông thấy sợ hãi bỏ chạy.
Dực Thánh vương và Đông Chinh vương phải chạy trốn.
Cũng trong năm 1028, nghe tin Vũ Đức vương bị giết trong cuộc
chiến ngai vàng, Khai Quốc vương đóng ở phủ Trường Yên, Hoa Lư dấy lòng bất
bình, cậy có núi sông hiểm trở đem phủ binh trở cờ làm phản. Vua Lý Thái Tông
thân dẫn binh chinh phạt. Khi đến Trường Yên, Khai Quốc vương đầu hàng. Vua hạ
lệnh: Ai cướp bóc của cải của dân thì chém. Quân sĩ nghiêm cẩn tuân theo, không
mảy may xâm phạm. Đại quân vào thành Hoa Lư, dân trong thành dâng biếu trâu rượu
đứng đầy đường. Vua sai sứ tuyên chỉ động viên, cả thành vui lớn. Vua từ phủ
Trường Yên về, xuống chiếu xá tội cho Khai Quốc vương, vẫn cho giữ tước như cũ.
Dẹp xong loạn Tam vương, ngày Kỷ Hợi tức ngày 1 tháng 4 năm
1028, Thái tử Lý Phật Mã lên ngôi, hiệu là Lý Thái Tông. Ông đổi niên hiệu là
Thiên Thành (天成).
Sau đó, Dực Thánh vương và Đông Chinh vương xin về chịu tội.
Thái Tông nghĩ tình cốt nhục bèn tha tội cho, phục lại chức cũ cho cả hai người.
Vì sự cố phản nghịch của Tam vương, vua Lý Thái Tông mới lập
lệ, hàng năm, các quan trong triều phải đến đền Đồng Cổ ở làng Yên Thái, Hà Nội
làm lễ đọc lời thề rằng:
Làm con phải hiếu, làm tôi phải trung, ai bất hiếu bất
trung, xin quỷ thần làm tội.
Các quan trốn không đến thề phải chịu phạt 50 trượng.
Đánh dẹp bạo loạn và chinh phạt
Vua Lý Thái Tông là người có thiên tư đĩnh ngộ, thông lục
nghệ, tinh thạo binh thư thao lược, khi dó trong nước có nhiều loạn giặc nổi
lên, nhưng do đã quen chinh đông chinh tây, dùng binh thảo phát, nên Vua thường
thân chinh dẫn binh thảo phạt.
Thời đó hoàng đế không đặt quan tiết trấn, phàm việc việc
dân việc ở các châu đều giao cho người châu mục. Trên mạn thượng du thì người
tù trưởng quản lĩnh. Nhưng vì quyền hành cho người bản địa quá lớn, thường xảy
ra phản nghịch. Các nước lân bang như Chiêm Thành và Ai Lao thường hay sang quấy
nhiễu, do đó Lý Thái Tông phải dấy binh chinh phạt rất nhiều.
Loạn họ Nùng
Các châu có dân người Nùng thường hay làm loạn. Năm 1038,
Nùng Tồn Phúc ở châu Quảng Nguyên, Lạng Sơn làm phản, tự xưng là "Chiêu
Thành Hoàng đế", lập A Nùng làm "Minh Đức Hoàng hậu", đặt quốc
hiệu là Trường Sinh rồi đem quân đi đánh phá các nơi.
Theo Đại Việt sử ký Toàn thư, Nhà Tống phong Lý Thái Tông
làm Nam Bình Vương.
Tháng 2 năm 1039, vua thân chinh dẫn binh đánh dẹp, Nùng Tồn
Phúc và con là Nùng Trí Thông bị bắt đem về kinh đô, sau đó bị xử chém. A Nùng
và người con khác là Nùng Trí Cao chạy thoát.
Năm 1041, Nùng Trí Cao cùng mẹ là A Nùng về chiếm lấy châu
Thảng Do, gần châu Quảng Nguyên, tuyên lập ra nước Đại Lịch. Thái Tông sai đại
tướng dẫn binh lên đánh dẹp, bắt được đem về Thăng Long. Nhưng vua nghĩ trước
đã giết cha và anh, nay thương tình không giết, tha cho về, sắc phong làm Quảng
Nguyên mục. Sau, Lý Thái Tông lại gia phong cho tước Thái bảo.
Năm 1048, Nùng Trí Cao lại làm phản, chiếm giữ động Vật Ác, phía
tây Cao Bằng. Lý Thái Tông sai đại tướng Quách Thịnh Dật đi đánh, Trí Cao đầu
hàng và lại được thả.
Năm 1052, Nùng Trí Cao lại làm phản, xưng là Nhân Huệ Hoàng
đế, đặt quốc hiệu là Đại Nam. Trí Cao xin thuộc vào Trung Quốc, vua Nhân Tông
nhà Tống không cho. Trí Cao bèn đem quân sang đánh đất triều Tống, phá trại
Hoàng Sơn, bao vây những châu Ung, Hoành, Quý, Đằng, Ngô, Khang, Đoan, Củng, Ngay
sau đó tiến đến vây hãm thành Quảng Châu. Năm tuần sau, Nùng Trí Cao vây đánh
nhưng không vào được thành này. Sau đó, đạo quân của Trí Cao đánh vào Ung Châu,
tướng tá triều Tống bị sát hại hơn 3000 người, hàng vạn dân chúng bị bắt sống.
Trước thảm họa này, triều Nhà Tống lo sợ. Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư:
"Khu mật sứ Địch Thanh dâng biểu xin đi đánh. Vua Tống sai Thanh làm Tuyên
huy sứ Đô đại đề cử, Tổng quyền tiết việt đi đánh."
Lý Thái Tông dâng biểu sang Trung Quốc xin mang quân phối hợp
đánh Trí Cao. Khi quân Lý sắp vào biên giới, tướng Nhà Tống là Địch Thanh can
vua Tống nên tự đánh dẹp vì sợ quân Lý vào chiếm đất. Vua Tống bèn sai các tướng
Dư Tĩnh và Tôn Miện đi đánh dẹp Nùng Trí Cao, sai sứ nói với Lý Thái Tông không
cần quân nhà Lý giúp. Dư Tĩnh đánh mãi không được. Nùng Trí Cao dâng biểu xin chức
Tiết độ sứ Ung châu và Quý châu, vua Nhà Tống đã toan thuận cho, Địch Thanh can
không nên và xin đem quân đi đánh.
Đầu năm 1053, Địch Thanh dẫn quân đánh bại Nùng Trí Cao.
Nùng Trí Cao bỏ chạy. Tháng 10 năm 1053, Nùng Trí Cao sai Lương Châu đến cầu cứu
Đại Việt. Lý Thái Tông sai Chỉ huy sứ Vũ Nhị đi tiếp ứng cho Trí Cao. Nhưng
quân Lý chưa tới nơi thì Trí Cao lại bị Địch Thanh đánh bại, Trí Cao phải chạy
trốn sang nước Đại Lý. Quân Lý rút về.
Sau này người Đại Lý bắt Nùng Trí Cao chém đầu đem nộp Nhà Tống.
Nhà Tống mang chém luôn toàn bộ gia quyến của Trí Cao. Từ đó họ Nùng tuyệt diệt.
Lý Thái Tông lên ngôi hơn 15 năm, mà nước Chiêm Thành láng
giềng không chịu thông sứ và thường xuyên quấy nhiễu trên biển. Để trừng phạt, Vua
sắp sửa binh thuyền, mang đại binh sang đánh Chiêm Thành.
Năm 1044, Hoàng đế Lý Thái Tông chinh phạt Chiêm Thành. Quân
Chiêm dàn trận phía nam sông Ngũ Bồ. Lý Thái Tông truyền lệnh thúc quân đánh
tràn sang, quân Chiêm thua chạy. Quân Lý bắt tù binh hơn 5.000 người và 30 voi
chiến. Tướng Chiêm là Quách Gia Di chém chết vua Sạ Đẩu (Jaya Simhavarman II)
đem đầu sang xin hàng.
Bấy giờ quân Chiêm Thành và dân bản địa bị giết rất nhiều.
Vua Thái Tông trông thấy động lòng thương, ra lệnh cấm không được giết người
Chiêm, hễ trái lệnh thì theo phép quân mà trị tội.
Ông tiến binh đến quốc đô Phật Thệ, nay ở làng Nguyệt Hậu,
huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên-Huế, vào thành bắt vương phi Mỵ Ê và các cung
nữ đem về. Mỵ Ê giữ tiết nhảy xuống sông tự tử. Vua khen Mỵ Ê là trinh tiết, sắc
phong làm Hiệp Chính Hựu Thiện phu nhân.
Đại Việt Sử ký Toàn thư ghi nhận:
“Vua từ Chiêm Thành về, làm lễ cáo thắng trận ở miếu Thái Tổ,
xong về ngự ở điện Thiên An, mở tiệc rượu làm lễ mừng về đến nơi. Ngày hôm ấy,
bầy tôi dâng tù binh hơn 5 nghìn tên và các thứ vàng bạc châu báu. Xuống chiếu
cho các tù binh đều được nhận người cùng bộ tộc, cho ở từ trấn Vĩnh Khang đến
Đăng Châu (nay là Quy Hóa), đặt hương ấp phỏng tên gọi cũ của Chiêm Thành. Vua
sai đặt cũi lớn ở Dâm Đàm (tức là Hồ Tây ngày nay), lấy con voi thuần của Chiêm
Thành làm mồi nhử voi rừng vào trong cũi, vua thân đến bắt...”
Thời gian đầu của triều Lý, nhiều thủ lĩnh địa phương chưa
phục tùng, do đó các vua Lý từ Thái Tổ Hoàng đế tới Thái Tông Hoàng đế phải nhiều
lần xuất binh đánh dẹp. Ngoài những cuộc chinh phạt lớn, Vua Lý Thái Tông dấy
binh đánh châu Ái năm 1034, đánh Ai Lao năm 1048. Tháng 9 năm Mậu Tý 1048 niên
hiệu Thiên Cảm Thánh Vũ thứ 5, Đại tướng Phùng Trí Năng nhận lệnh vua đem quân đánh
Ai Lao, quân Việt bắt giữ rất nhiều tù binh và gia súc của Ai Lao mang về.
Trị vì thiên hạ
Năm 1049, vua Lý Thái Tông cho dựng chùa Diên Hựu, tức chùa
Một Cột.
Xây dựng cung điện
Tháng 6 năm 1029, rồng hiện lên ở nền điện Càn Nguyên. Đế
nói với tả hữu rằng: "Trẫm phá điện ấy, sang phẳng nền rồi mà rồng thần
còn hiện. Có lẽ đây là đất tốt, đức lớn hưng thịnh, ở chỗ chính giữa trời đất
chăng?". Bèn sai Hữu ty mở rộng quy mô, ngắm phương hướng mà làm lại, đổi
tên là điện Thiên An. Bên tả dựng điện Tuyên Đức, bên hữu dựng điện Diên Phúc,
thềm trước điện là Long Trì. Phía đông thềm rồng đặt điện Văn Minh, phía tây đặt
điện Quang Vũ. Đặc biệt hai bên tả hữu thềm rồng đặt lầu chuông đối nhau để dân
chúng ai có kiện tụng oan uổng thì đánh chuông lên. Bốn xung quanh thềm rồng đều
có hành lang để các quan tụ họp và sáu quân túc vệ canh giữ.
Phía trước dựng điện Phụng Thiên, trên điện dựng lầu Chính
Dương làm nơi trông coi tính toán giờ khắc, phía sau làm điện Trường Xuân, trên
điện dựng gác Long Đồ là nơi nghỉ ngơi du ngoạn. Bên ngoài đắp tường thành bao
quanh gọi là Long Thành. Năm 1030, Thái Tông lại sai làm điện Thiên Khánh trước
điện Trường Xuân, đây là nơi vua nghe chính sự. Điện làm kiểu bát giác, trước
sau đều bắc cầu Phượng Hoàng.
Ban sách Hình thư
Thái Tông Hoàng đế có chủ trương sửa sang luật pháp, định
các bậc hình phạt, các cách tra hỏi. Kẻ nào ban đêm vào nhà gian dâm vợ cả, vợ
lẽ người ta, người chủ đánh chết ngay lúc bấy giờ thì không bị tội. Những người
từ 70 tuổi trở lên, 80 tuổi trở xuống, từ 10 tuổi trở lên, 15 tuổi trở xuống và
những người ốm yếu cho đến các thân thuộc họ Lý từ hạng Đại công trở lên phạm tội
thì cho chuộc bằng tiền, nếu phạm tội thập ác thì không được theo lệ này.
Xuống chiếu về phú thuế của trăm họ, cho phép người thu,
ngoài 10 phần phải nộp quan được lấy thêm một phần nữa, gọi là "hoành đầu".
Lấy quá thì xử theo tội ăn trộm, trăm họ có người tố cáo được tha phú dịch cho
cả nhà trong 3 năm, người ở kinh thành mà cáo giác thì thưởng cho bằng hiện vật
thu được. Nếu quản giáp, chủ đô và người thu thuế thông đồng nhau thu quá lệ,
dù xảy ra đã lâu, nhưng có người tố cáo thì quản giáp, chủ đô và người thu thuế
phạm tội như nhau.
Năm 1042, Thái Tông Hoàng đế ban Hình thư. Trước kia, việc
kiện tụng trong nước phiền nhiễu, quan lại giữ luật pháp câu nệ luật văn, cốt
làm cho khắc nghiệt, thậm chí có người bị oan uổng quá đáng.
Hoàng Đế lấy làm thương xót, sai trung thư san định luật lệnh,
châm chước cho thích dụng với thời thế, chia ra môn loại, biên thành điều khoản,
làm thành sách Hình thư của một triều đại, để cho người xem, người dùng dễ hiểu.
Sách làm xong, xuống chiếu ban hành, dân lấy làm thuận. Đến đây phép xử án được
chế định công bằng, thẳng thắn rõ ràng, cho nên Đế đổi niên hiệu là Minh Đạo, đúc
tiền Minh Đạo. Bộ Luật Hình thư năm 1042 được xem là bộ Luật bằng văn bản mang
tính quốc gia đầu tiên trong lịch sử Việt Nam.
Năm 1043, tháng 8, xuống chiếu rằng kẻ nào đem bán hoàng nam
trong dân gian làm gia nô cho người ta, đã bán rồi thì đánh 100 trượng, thích
vào mặt 20 chữ, chưa bán mà đã làm việc cho người thì cũng giáng trượng như thế,
thích vào mặt 10 chữ; người nào biết chuyện mà cũng mua thì xử giảm một bậc. Xuống
chiếu quy định, quân sĩ bỏ trốn quá 1 năm xử 100 trượng, thích vào mặt 50 chữ,
chưa đến 1 năm thì xử theo mức tội nhẹ, kẻ nào quay lại thì cho về chỗ cũ. Quân
sĩ không theo xa giá cũng xử trượng tương tự và thích vào mặt 10 chữ.
Chăm lo quốc lực, kế sâu rễ bền gốc
Thái Tông Hoàng đế tuy phải đánh dẹp liên miên, nhưng cũng
không bỏ bê việc chính trị trong nước. Đặc biệt, ông tỏ ra là vị hoàng đế có
lòng thương dân. Hễ năm nào đói kém hoặc đi chinh phạt, vua lại giảm thuế cho
dân trong hai ba năm.
Tháng 2 năm 1038, Thái Tông Hoàng đế thân hành ra cửa Bồ Hảim
thực hành lễ cày ruộng Tịch điền. Vua tế Thần Nông, tế xong tự cầm cày xuống ruộng.
Các quan can rằng:"Đó là việc của nông phu, bệ hạ việc gì phải làm thế?".
Thái Tông đáp rằng: "Trẫm không tự cày cấy thì lấy gì mà có xôi cúng, lại
lấy gì cho thiên hạ noi theo?" Nói xong Đế đẩy cày ba lần mới thôi.
Năm 1040, Thái Tông Hoàng đế ra lệnh lấy hết gấm vóc hàng nước
Tống trong cung ra may áo ban cho các quan, từ ngũ phẩm trở lên thì áo bào gấm,
từ cửu phẩm trở lên thì áo bào vóc. Thái Tông phát hết gấm vóc và dạy cho cung
nữ dệt được gấm vóc. Từ đó trong cung chuyên dùng hàng tự dệt, không dùng hàng
của nước Tống nữa.
Xây dựng chùa Diên Hựu
Tháng 10 năm 1049, Thái Tông Hoàng đế khởi đầu cho công
trình xây dựng chùa Diên Hựu.
Tương truyền, Hoàng đế nằm mơ thấy Phật bà Quan Âm ngồi trên
tòa sen dắt ông lên tòa. Sau đó, Đế kể lại chuyện đó với bầy tôi và cho dựng cột
đá, làm tòa sen đặt lên như đã thấy trong mộng, theo lời khuyên của nhà sư Thiền
Tuệ. Cột tòa sen đó trở thành ngôi chùa, khi đó có tên là chùa Diên Hựu (延祐寺), với
nghĩa là "phúc lành dài lâu" hay "phước bền dài lâu".
Chùa Diên Hựu - Chùa Một Cột
Hằng năm cứ đến ngày 8 tháng 4 âm lịch, Thái Tông Hoàng đế lại
tới chùa làm lễ tắm Phật. Các nhà sư và nhân dân khắp kinh thành Thăng Long
cùng dự lễ. Sau lễ tắm Phật là lễ phóng sinh, Đế đứng trên một đài cao trước
chùa thả một con chim bay đi, rồi nhân dân cùng tung chim bay theo trong tiếng
reo vui của một ngày hội lớn.
Qua đời
Tháng 7 năm Giáp Ngọ niên hiệu Sùng Hưng Đại Bảo năm thứ 6 tức 1054,
theo chiếu của Thái Tông Hoàng đế, Hoàng thái tử Lý Nhật Tôn được phép coi chầu
nghe chính sự.
Tháng 9, ngày Mậu Dần, sức khỏe của Hoàng đế không được tốt.
Sang mùa đông, vào tháng 10, ngày mồng một, tức ngày 3 tháng 11 năm 1054, vua
băng hà tại điện Trường Xuân, sau 27 năm trị quốc, thọ 54 tuổi. Miếu hiệu là
Thái Tông, thụy hiệu không được chép lại trong sách sử.
Trước linh cữu, Hoàng thái tử Lý Nhật Tôn kế thừa hoàng vị,
tức là Lý Thánh Tông.
Nhận định của sử gia
Sách Đại Việt sử ký toàn thư có nhận xét về Lý Thái Tông:
“ Vua là người trầm mặc, cơ trí, biết trước mọi việc,
giống như Hán Quang Vũ đánh đâu được đấy, công tích sánh với Đường Thái Tông.
Nhưng người quân tử còn lấy việc khoe khoang thái quá để chê trách vua chưa hiền.”
— Đại Việt Sử ký Toàn thư
Lý Thái Tông là vị hoàng đế tài giỏi thời nhà Lý. Hơn 30 năm
chinh chiến và trị quốc, vua đã củng cố nền quốc trị của nhà Lý, ngăn chặn
thành công mọi nguy cơ chia cắt, bạo loạn, xâm lược, thu phục lòng dân, khiến
cho nước Đại Cồ Việt trở nên vững mạnh.
Khi vua Lý Thái Tổ sắp mất, nhà Lý đứng trước nguy cơ trượt
theo vết xe đổ của các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê, chỉ truyền được 1 đời thì
gặp phải đại loạn và bị thoán đoạt. Uy tín và tài đức của Vua, tài năng, lòng
dũng cảm của Khai Quốc vương, tướng Lê Phụng Hiểu đã giúp nhanh chóng bình định
lại đất nươc.
Nhiều lần dùng binh từ nam chí bắc nhưng Lý Thái Tông a là vị
hoàng đế bao dung, nhân hậu. Các nhà sử học cho rằng Lý Thái Tông cũng như nhiều
hoàng đế nhà Lý khác có lượng khoan hồng vì ảnh hưởng của quốc giáo là đạo Phật.
Trừ Vũ Đức vương làm loạn bị giết, với những vương tôn phản
loạn khác Vua đều tha tội. Trong cuộc phản loạn của các vương tôn, nhờ người em
thứ hai của Thái Tông là Khai Quốc vương đem quân giải vây thành Thăng Long và
Trường Yên kinh đô Hoa Lư, giúp vua chống lại quân nổi loạn, chính Khai Quốc
vương vận động quần thần tôn Thái tử Lý Phật Mã lên ngôi. Nùng Trí Cao nhiều lần
làm phản nhưng vua vẫn ứng xử rộng lượng. Vì vậy nhà sử học Ngô Sĩ Liên theo
quan điểm Nho giáo chê ông "mê hoặc theo thuyết từ ái của đạo Phật mà tha
tội cho bề tôi phản nghịch".
Tuy nhiên, theo tác giả Lê Văn Siêu trong sách Việt Nam văn
minh sử, việc ông hậu đãi Nùng Trí Cao là một thâm ý kiểu "thất cầm Mạnh
Hoạch" của Gia Cát Lượng khiến Trí Cao kính phục và cảm kích. Sau này, dù Nùng
Trí Cao còn ý định xưng hùng, nổi loạn cũng sang Trung Quốc gây họa cho Tống và
kêu gọi cả vua Thái Tông cùng chia sẻ nhà Tống chứ không gây họa binh đao cho Đại
Cồ Việt.
Hậu Cung của vua Lý Thái Tông
Linh Cảm Hoàng hậu họ Mai thị (靈感皇后).
Vương hoàng hậu (王皇后).
Đinh hoàng hậu (丁皇后).
Thiên Cảm hoàng hậu họ Dương (天感皇后).
Đào Phi (陶妃)
Một số hoàng hậu không rõ tên, tổng cộng 8 người.
Hậu nhân
Lý Thái Tông có hai hoàng tử trước đó đều yểu mệnh, hoàng tử Nhật
Tôn là con trai thứ 3.
Hoàng thái tử Lý Nhật Tôn (李日尊), mẹ là Linh Cảm Hoàng hậu.
Phụng Càn vương Lý Nhật Trung (李日中), năm 1035
được sắc phong.
Bình Dương công chúa (平陽公主), năm 1029 gả cho châu mục
Lạng châu là Thân Thiệu Thái.
Trường Ninh công chúa (长宁公主), tháng 8 năm 1036 gả cho châu mục
Thượng Oai là Hà Thiện Lãm (何羡覧).
Kim Thành công chúa (慶城公主), tháng 3 năm 1036 gả cho
châu mục Phong châu là Lê Thuận Tông (黎順宗).
Thờ phụng
Lý Thái Tông cùng với các vua triều Lý được thờ ở khu di
tích đền Đô, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
Vùng đất Cố đô Hoa Lư vốn là nơi sinh trưởng và gắn bó với
tuổi thơ 10 năm của Lý Thái Tông trước khi kinh đô Đại Cồ Việt được dời về
Thăng Long nên tại đây còn nhiều di tích liên quan trực tiếp đến cuộc đời và sự
nghiệp của vị vua này.
Đó là các di tích chùa Duyên Ninh trong thành Tây Hoa Lư,
tương truyền là nơi sinh ra vua; di tích hang Thầy Bói ở gần cầu Đông là nơi ở
của người tiên đoán điềm lành khi vua sinh ra. Di tích động Am Tiên thờ chung 2
vua đầu đời Lý cùng với Hoàng hậu Phất Ngân. Di tích chùa Dầu được Lý Thái Tông
trực tiếp cho xây dựng để hoàng thân nhà Lý tu hành.
Quanh khu vực cửa Thần Phù (Ninh Bình) có nhiều di tích thờ
Lê Đại Hành cùng phối thờ Lý Thái Tông là 2 vị vua đã xây dựng hệ thống phòng
tuyến quân sự tại khu vực này, đó là các đình Quảng Công, đình Từ Đường, đền
Thượng Ngọc Lâm, đền Vua Lê Đại Hành ở 3 xã Yên Thái, Yên Lâm và Lai Thành.
Có ý kiến cho rằng Lý Thái Tông do từng có tuổi thơ 10 năm gắn
bó với vùng đất Cố đô Hoa Lư trước khi về với Thăng Long nên sau này xây chùa Một
Cột, đền Đồng Cổ, đền thờ Phạm Cự Lượng ở Thăng Long; đào kênh Lẫm, đầm Lẫm ở cửa
Thần Phù (Ninh Bình) và thực hiện nghi lễ cày ruộng Tịch điền đều noi theo truyền
thống từ thời ông ngoại của mình là vua Lê Đại Hành.
Nguồn: wikipedia