Mai Hắc Đế (chữ Hán: 梅黑帝; 670 – 723), tên húy là Mai Thúc Loan (梅叔鸞), là vị vua người Việt thời Bắc thuộc, anh hùng dân tộc, người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống lại ánh đô hộ của nhà Đường ở Việt Nam vào đầu thế kỉ thứ 8.
Mai Thúc Loan sinh vào năm Canh Ngọ (670) tại thôn Ngọc Trừng,
Hoan Châu, nay thuộc huyện Nam Đàn, Nghệ An. Theo Việt điện u linh, cha của Mai
Thúc Loan là Mai Hoàn, mẹ là Mai An Hòa nguyên gốc Thạch Hà, Hà Tĩnh, lưu lạc
sang vùng Nam Đàn, Nghệ An.
Truyền thuyết dân gian ở vùng huyện Thạch Hà cho hay rằng, họ
Mai chính là họ của thân mẫu Đức ông Mai Thúc Loan còn như thân sinh của ông họ
tên gì thì chưa rõ. Đức ông Mai Thúc Loan phải chịu cảnh mồ côi cha từ lúc còn
rất nhỏ tuổi, gia đình ông thuộc vào hàng nghèo khó nhất vùng Kẻ Mỏm đương thời.
Tài sản quý giá nhất của Đức ông Mai Thúc Loan chính là sức
khoẻ mà ông may mắn được trời ban cho. Đời truyền rằng Đức ông Mai Thúc Loan
người cao to, tay buông dài quá gối còn làn da thì rất đen. Ông rất giỏi võ nghệ,
lại có tiếng là sáng dạ và đặc biệt là rất có... duyên! Năm Đức ông Mai Thúc
Loan chưa đầy 10 tuổi thì thân mẫu ông dời nhà ra định cư ở vùng rừng núi Ngọc
Trừng (vùng này ngày nay thuộc huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An).
Tại đây Đức ông Mai Thúc Loan đã phải làm đủ mọi việc nặng
nhọc nhất để kiếm sống : vào rừng lấy củi về bán, chăn trâu, đi cày thuê cuốc
mướn, ở đợ...Tuy phải sống rất cơ cực và vất vả phải chịu đựng thiếu thốn trăm
bễ nhưng ông luôn luôn yêu đời.
Hai mẹ con ông lúc nào cũng biết thương yêu đùm bọc và che
chở cho nhau. Bấy giờ, Đức ông Mai Thúc Loan lại có tiếng là người rất giàu
lòng hiếu thảo, cho nên, dân trong vùng ai cũng đều quý mến gia đình Đức ông
Mai Thúc Loan. Sau khi mẹ mất sớm, Đức ông được người bạn của cha là Đinh Thế
đem về nuôi, sau gả con gái là Ngọc Tô cho.
Sinh thời, Mai Thúc Loan vốn rất khỏe mạnh, giỏi đô vật, học
rất giỏi và có chí lớn. Ông mở lò vật, lập phường săn, chiêu mộ trai tráng
trong vùng mưu việc lớn. Vợ ông giỏi việc nông trang, nhờ đó "gia sản ngày
một nhiều, môn hạ ngày một đông."
Nhờ chí du ngoạn lại được vợ hết lòng ủng hộ, Mai Thúc Loan
kết thân với nhiều hào kiệt, sau này trở thành những tướng tài tụ nghĩa dưới lá
cờ của ông như Phòng Hậu, Thôi Thặng, Đàn Vân Du, Mao Hoành, Tùng Thụ, Tiết
Anh, Hoắc Đan, Khổng Qua, Cam Hề, Sỹ Lâm, Bộ Tân...
Sách An Nam chí lược viết về ông là "Soái trưởng Giao
Châu".
Bộ chính sử đầu tiên của nước ta có đề cập tới nhân vật Đức
ông Mai Thúc Loan là ĐẠI VIỆT SỬ KÍ TOÀN THƯ (Ngoại kỉ, quyển 5, tờ 4-b) nhưng
tất cả cũng chỉ gồm vỏn vẹn chừng độ ba bốn chục chữ và tất nhiên là số lượng
những thông tin quan trọng hầu như không có gì đáng kể.
Mấy thế kỉ sau, các sử gia trong Quốc Sử Quán Triều Nguyễn với
việc biên soạn bộ KHÂM ĐỊNH VIỆT SỬ THÔNG GIÁM CƯƠNG MỤC (Tiền biên, quyển 4, tờ
21), đành là có cố gắng sưu tầm thêm tư liệu và ghi chép về nhân vật Đức ông
Mai Thúc Loan tương đối dài hơn, song, mức độ cũng chỉ rất giản lược.
Ở Trung Quốc, từ góc độ chủ yếu là ghi nhận hoạt động của đội
ngũ quan lại trực tiếp nắm quyền đô hộ tại nước ta, một vài tác phẩm sử học mà
đặc biệt hơn cả là TÂN ĐƯỜNG THƯ (do Âu Dương Tu và Tống Kỳ biên soạn), cũng có
viết về Đức ông Mai Thúc Loan.
Tất nhiên là bức chân dung Đức ông Mai Thúc Loan trong sử
sách của Trung Quốc luôn luôn bị bóp méo, hành trạng của Đức ông Mai Thúc Loan
trở nên xa lạ với chính ông và bối cảnh lịch sử của thời đại ông.
Tóm lại, thông tin về Đức ông Mai Thúc Loan trong kho thư tịch
cổ là rất rời rạc và nghèo nàn. Mặc dù vậy, nếu cẩn trọng tổng kết những ghi
chép tản mạn trong các bộ sử cũ của ta và của Trung Quốc, đồng thời, cố gắng đối
chiếu thật tỉ mỉ với nội dung các thần tích và lời kể của truyền thuyết dân
gian (nhất là thần tích và truyền thuyết dân gian ở hai tỉnh Nghệ An và Hà
Tĩnh), cũng có thể bước đầu phác hoạ được vài nét về lí lịch cuộc đời và sự
nghiệp của Đức ông Mai Thúc Loan.
Đức ông Mai Thúc Loan lớn lên trong cảnh non sông bị chìm đắm
bởi ách đô hộ tàn bạo của nhà Đường (618-907), trăm họ phải chịu đựng không biết
bao nhiêu nỗi thống khổ. Bấy giờ ở Trung Quốc, phe cánh của Vũ Tắc Thiên đã bị
lật đổ, Hoàng Đế mới của nhà Đường là Đường Huyền Tông (712-756) ra sức tìm đủ
mọi cách để củng cố ngôi vị và quyền lực của mình.
Ách thống trị của nhà Đường đối với nước ta vì thế mà càng
thêm tàn bạo. Lợi dụng việc trấn trị ở nơi quá cách xa triều đình trung ương, bọn
quan lại đô hộ tự cho mình quyền được tự tung tự tác.
Nhiều thư tịch cổ của Trung Quốc cũng đã thừa nhận rằng,
viên quan nào muốn được cử đi An Nam Đô Hộ Phủ cũng đều phải bỏ tiền ra hối lộ,
ấy gọi là tiền gạo tiến thân (219). Để bù lại số tiền gạo tiến thân đã bỏ ra và
quan trọng hơn nữa, để làm giàu cho riêng mình, chúng tìm đủ cách để vơ vét.
Lúc này, Tô-Dung-Điệu
tuy đã được đặt ra nhưng chế độ cống nạp vẫn được áp dụng một cách rất phổ biến
và ráo riết. Mượn danh nghĩa thu cống phẩm cho triều đình, bọn quan lại nhà Đường
ngang nhiên tước đoạt của nhân dân ta tất cả những gì mà chúng xếp vào loại đặc
sản, tất cả những gì mà chúng cho là quý nhất, tốt nhất, đẹp nhất và lạ nhất, tất
cả những gì chúng muốn có và tất cả những gì mà chúng không muốn dân ta có.
Phần tài sản của nhân dân ta mà chúng ngang nhiên tước đoạt
một cách trắng trợn này được gọi là ngoại suất (220). Với xã hội đương thời,
ngoại suất luôn luôn là nỗi ám ảnh nặng nề. Điều đáng nói là hầu hết các khoản
ngoại suất đều được chính quyền đô hộ nhà Đường quy ra lụa và cứ mỗi lần quy đổi
là thêm một lần thiệt hại cho dân.
Theo một số tài liệu kể lại, Đức ông Mai Thúc Loan lại phải đi phu. Bấy giờ
chính quyền đô hộ của nhà Đường quy định dân đinh mỗi năm phải đi phu từ 20 đến
50 ngày. Tất nhiên, đó chỉ là quy định trên giấy tờ chứ trong thực tế thì mọi dân
đinh nghèo khổ đều phải quanh năm đi lao động không công để phục dịch cho giai
cấp thống trị. Lần này, Đức ông Mai Thúc
Loan phải làm phu đi gánh quả vải. Đường xa, gánh nặng,
cực nhọc trăm bề, cho nên hễ nghe tới chuyện phải đi làm phu gánh quả vải là ai
cũng ngao ngán. Lời một bài hát chầu văn ở vùng Nam Đàn (tỉnh Nghệ An) có câu :
Nhớ khi nội thuộc Đường triều.
Giang sơn cố quốc nhiều điều ghê gai.
Sâu quả vải vì ai vạch lá.
Ngựa hồng trần kể đã héo hon.
Không thể tiếp tục chịu đựng mãi cảnh bị áp bức bất công được
nữa, Đức ông Mai Thúc Loan đã kêu gọi toàn thể đoàn phu gánh quả vải đồng lòng
vùng dậy chống ách đô hộ của nhà Dường.
Ngay lập tức, lời kêu gọi của ông đã được toàn thể đoàn phu
nhất tề hưởng ứng. Dân khắp cõi cũng nồng nhiệt ủng hộ lực lượng nghĩa sĩ do Đức
ông Mai Thúc Loan vừa mới thành lập và lãnh đạo. Quan quân đô hộ nhà Đường phải
thực sự đối đầu với một cuộc đấu tranh vũ trang rất mạnh mẽ.
Hiện nay các nhà nghiên cứu đều thống nhất: sưu cao, thuế nặng
là nguyên nhân khiến nhân dân nổi dậy chống lại ách đô hộ nhà Đường, nổi bật là
khởi nghĩa Hoan Châu. Đây là cuộc khởi nghĩa có sự chuẩn bị, biết chọn thời cơ,
không phải một cuộc bạo động. Chuyện "cống vải" của An Nam có thể chỉ
là một chi tiết của truyền thuyết, không có ý nghĩa quyết định cuộc khởi nghĩa
trong thực tế.
Tháng 4 năm Quý Sửu (713), Mai Thúc Loan quyết định dấy cờ, đánh thẳng vào Châu Trị mở rộng địa bàn Hoan Châu cho cuộc khởi
nghĩa.
Mai Thúc Loan phát hịch kể tội giặc Đường và kêu
gọi người Việt đứng lên gìn giữ non sông. Từ căn cứ Hùng Sơn, Mai Thúc
Loan mở rộng địa bàn, xây thành Vạn An quy mô của một kinh thành.
Từ
đây Mai Thúc Loan tìm cách liên kết với các thủ lĩnh và nhân dân các
châu miền núi, với Champa để có thêm lực lượng chống quân Đường.
Địa bàn hoạt động đầu tiên cũng là địa bàn hoạt động chủ yếu
và lâu dài nhất của nghĩa quân Đức ông Mai Thúc Loan chính là vùng Châu Hoan,
Châu Diễn và Châu Ái. Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau ngày dựng cờ xướng nghĩa,
theo ghi chép của các thư tịch cổ Trung Quốc thì Đức ông Mai Thúc Loan đã nhanh
chóng liên kết và tập hợp được dân chúng của 32 châu.
Hơn thế nữa, cũng theo ghi chép của các thư tịch cổ Trung Quốc
thì Đức ông Mai Thúc Loan còn nhận được sự hưởng ứng mãnh liệt của nhân dân một
số nước chung quanh. Sử cũ chép rằng Đức ông Mai Thúc Loan đã “liên kết với dân
các nước Lâm Ấp, Chân Lạp và Kim Lân, giữ vững Nam Hải, quân số lên đến 40 vạn
người”.
Nhờ có lực lượng khá đông đảo lại còn được nhân dân các địa
phương đồng lòng ủng hộ. từ quê nhà là đất Nghệ An, Đức ông Mai Thúc Loan đã
đưa đại quân rầm rộ tiến thẳng ra Bắc mà mục tiêu quan trọng hàng đầu chính là
thành Tống Bình (vùng Hà Nội ngày nay). Quân Đức ông Mai Thúc Loan tiến đến đâu
là ách đô hộ của giặc tan rã tới đó.
Trước khi tiến đánh thủ phủ đô hộ ngoài Giao Châu, Mai Thúc Loan được quân dân tôn phong lên ngôi Hoàng đế lấy vương hiệu là Mai Hắc Đế (Vua Đen họ Mai).
Và,
chỉ trong một trận ác chiến, Mai Thúc Loan đã chiếm được phủ thành Tống
Bình (Hà Nội), Viên quan đứng đầu cơ quan đô hộ của nhà Dường ở An Nam Đô Hộ
Phủ lúc bấy giờ là Quang Sở Khách vì khiếp đảm trước những cuộc tấn công ồ ạt của
nghĩa quân Đức ông Mai Thúc Loan nên đã nhanh chân tháo chạy về Trung Quốc. Vua Mai Hắc Đế giành lại giang sơn. Đất nước ta được giải phóng nhân dân khắp nơi nô nức đầu quân, lực lượng nghĩa quân tới hàng chục vạn người.
Vua Mai Hắc Đế, thay vì đóng đô ở
thành Tống Bình lại dẫn quân quay về quê nhà và đóng đô tại
thành Vạn An (thành này nay thuộc huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An). Thành Vạn An nằm
giữa khu căn cứ Sa Nam.
Khu căn cứ này từng được một số nhà nghiên cứu khảo sát và
mô tả khá chi tiết như sau : “Đấy là vùng núi rừng rậm rạp nằm cạnh sông Lam ở
khúc hiểm sâu. Ông lấy Vệ Sơn làm trung tâm, đóng đại bản doanh của nghĩa quân.
Dọc bờ sông Lam, nghĩa quân đắp một chiến lũy dài hơn nghìn mét.
Đấy là thành Vạn An nổi tiếng, có núi Đụn (Hùng Sơn) làm chỗ
dựa ; phía trong núi là dải thung lũng rộng vài chục mẫu, dùng làm nơi trữ
lương thực, vũ khí ; phía ngoài núi, có nhiều đồn trại đóng ở cạnh sườn ; chung
quanh núi, sông Lam vây bọc như con hào tự nhiên.
Bao quanh trung tâm (Vệ Sơn), nghĩa quân xây dưng một hệ thống
đồn trại nương tựa lẫn nhau : Biều Sơn (hình quả bầu) bảo vệ cánh tả, Liêu Sơn
bảo vệ mặt trước, Ngọc Đái Sơn (hình đai ngọc) cạnh thành Vạn An, là đồn tổng
chỉ huy, thống lĩnh cả hai đạo quân thuỷ bộ”.
Như vậy là chỉ trong vòng hơn 30 năm (từ năm Lý Tự Tiên và
Đinh Kiến dõng dạc cất lời hiệu triệu bốn phương cầm vũ khí để vùng dậy khởi
nghĩa cho đến năm Đức ông Mai Thúc Loan vung gươm quyết chí đại định), chính
quyền đô hộ của nhà Đường đã hai lần bị đánh đổ.
Thắng lợi của Đức ông Mai Thúc Loan là đòn cảnh cáo quyết liệt
đối với mưu đồ chung của chủ nghĩa bành trướng đại Hán và là một dự báo mới cho
khả năng giành được trọn vẹn độc lập và tự chủ của nhân dân ta.
Tuy nhiên, bình đẳng như mọi nhân vật lịch sử khác, vua Mai
Thúc Loan cũng có những hạn chế tất yếu của ông. Việc vua Mai Thúc Loan chọn đất
đóng đô và đặc biệt là cách bố phòng chung quanh thành Vạn An, điều mà bất cứ
ai cũng đều có thể dễ dàng nhận ra là tư tưởng phòng ngự đã xuất hiện quá sớm
và chi phối khá mạnh suy nghĩ cũng như hành động của ông.
Khi mà bọn quan quân đô hộ chỉ mới tháo chạy chứ chưa hoàn toàn
bị tiêu diệt, khi mà việc trấn áp tay chân của phong kiến phương Bắc tiến hành
chưa triệt để và khi mà chính quyền mới chưa được xây dựng một cách chắc chắn
và hoàn chỉnh thì việc lui về phòng thủ tại thành Vạn An ngay trong năm 722 quả
là một quyết định vội vàng và điều này đã bị kẻ thù nhanh chóng phát hiện rồi
tìm cách lợi dụng.