Miếu Đông, làng Đống Khê, phường Đồng Hoà, quận Kiến An, thành phố Hải Phòng, một địa chỉ văn hóa tín ngưỡng, tâm linh của người dân địa phương, thờ phụng Thành hoàng là Cao Sơn Quốc chủ Đại vương.
Miếu Đông là công trình tín ngưỡng mang nhiều giá trị lịch sử,
văn hóa của người dân Đồng Hoà. Miếu là nơi thờ phụng Thành hoàng Cao Sơn quốc
chủ đại vương, danh sĩ học rộng tài cao, đã có nhiều công lao giáo hóa dân
chúng, trị bệnh cứu người, dạy dỗ nhân dân địa phương.
Năm Khánh Lịch thứ 6 ngài đỗ Tiến sĩ đệ nhị, được phong làm
Thừa Tướng. Sau khi qua đời được vua sắc phong là Cao Sơn quốc chủ đại vương,
Thụy là Trưng Trinh, ban lệnh khắp thiên hạ lập đền thờ, bốn mùa hương khói để
biểu dương công đức của Ngài. Việc thờ cúng nguyện cầu thường được linh ứng.
Di tích lịch sử thành phố Hải Phòng
Di tích lịch sử Miếu Đông, phường Đồng Hoà, quận Kiến An,
thành phố Hải Phòng có quy mô kiến trúc không rộng lớn, bề thế nhưng miếu còn
lưu giữ được một số cổ vật, di vật có giá trị lịch sử, văn hóa và mỹ thuật.
Căn cứ Luật Di sản văn hóa ngày 29 tháng 6 năm 2001 và Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa ngày 18 tháng 6 năm 2009,
theo Quyết định số 4320/QĐ-UBND ngày 14/12/2023, Miếu Đông được xếp hạng di
tích lịch sử cấp thành phố.
Nhân vật, sự kiện lịch sử, đặc điểm của di tích
Căn cứ Bản kê khai Thần tích - Thần sắc làng Đống Khê, tổng
Đống Khê, phủ Kiến Thuỷ, tỉnh Kiến An năm 1938 (Ký hiệu: TT-TS FQ 4018/X,64)
lưu trữ tại Viện Thông tin Khoa học xã hội, Miếu thờ vị nhân thần có tên là Hiển,
tên chữ là Văn Trường, ngài họ Cao ở làng Bảo Sơn, quận Quảng Nam, nước Đại
Minh. Hiệu ngài là Kim Sơn, tên huý Hiển, ngài là nhân thần.
Bản thần tích Cao sơn quốc chủ đại vương cho biết: Ngài người
Bảo Sơn, quận Quảng Nam, nước Đại Minh. Họ Cao tôn huý là Hiển, tên chữ là Văn
Trường. Tuổi trẻ đã có chí lớn, thông thạo các sách sử bác học. Đặc biệt giỏi về
ngũ kinh, đến 29 tuổi trúng tuyển kỳ thi hương, vào niên hiệu Khánh Lịch thứ 6
đỗ tiến sĩ đệ nhị, được phong làm làm Thừa Tướng, gia phong Nguyên soái, ngài
gánh vác việc nước đến năm 78 tuổi, vua cho về hưu trí, Sống thọ tới 103 tuổi
thì mất.
Khi hóa, ngài được sắc phong là Cao Sơn quốc chủ đại vương,
thụy là Trung Trinh, cho lập đền thờ ở nhiều nơi. Việc thờ cúng nguyện cầu rất
linh ứng. Trải qua nhiều đời đều được gia phong.
Hiện Miếu còn giữ được các sắc phong triều Nguyễn vào các
năm Tự Đức thứ 6 (1853), Tự Đức thứ 33 (1880), Đồng Khánh thứ 2 (1887), Thành
Thái nguyên niên (1889), Duy Tân thứ 3 (1909) và Khải Định thứ 9 (1924), sắc cho
nhân dân xã Đống Khê hương khói đời đời phụng thờ.
Trên địa bàn phường Đồng Hòa, ngoài di tích Miếu Đông, còn
có di tích đình Đổng Khê, tôn thờ Ngài Cao Sơn làm Thành hoàng, được xếp hạng
di tích lịch sử cấp thành phố năm 2011.
Theo thần tích của xã Đống Khê thì từ xưa ở xã Tam Đội, huyện
Phụng Hóa, tỉnh Thanh Hóa cũng đã có một ngôi đền cổ thờ phụng Ngài Cao Sơn quốc
chủ đại vương.
Di tích lịch sử cách mạng
Ngày mùng 5 tháng 8 năm 1948, tại địa điểm đình Đống Khê,
thành lập chi bộ Đảng Đống Khê (tiền thân của Đảng bộ Đồng Hoà), do đồng chí
Phan Lượng làm bí thư chi bộ. Sau đó ông Vũ Hữu Thèo (Bí danh Bá Tước) làm bí
thư. Ông Thèo là người địa phương nên thấy rõ được địa thế, sự hoang vắng, rậm
rạp, hiểm trở của Miếu Đông, nên đã lấy nơi đây làm địa điểm liên lạc cùng các
ông Thanh Xuân, Lê Nam, bà Bùi Thị Mái (tức Thanh Phương). Tại miếu Đông có hầm
bí mật cất giấu vũ khí, tài liệu. Chính nơi đây một thời gian dài là đầu mối hoạt
động và chỉ huy của lực lượng kháng chiến vùng ven thành Hải Phòng.
Trong cuốn Lịch sử Đảng
bộ xã Đồng Hoà thời kỳ chống Pháp ghi rõ: Chi bộ Đảng Đống Khê do ông Vũ Hữu
Thèo có bí danh là Bá Tước làm bí thư, đã lợi dụng sự vắng vẻ và cây cối rậm rạp
của Miếu Đông làm nơi hoạt động bí mật.
Theo lời kể của Ông Bùi Đức Gắn, nguyên là Chủ tịch Uỷ ban
nhân dân xã Đồng Hoà cho biết: Hầm bí mật chứa cán bộ ở Miếu Đông có lúc lên đến
6 người, ông Gắn còn nhớ rõ, đó là các ông Thanh Xuân, Lê Nam, Trịnh Đình
Hoành... Nơi đây là đầu mối hoạt động và chỉ huy của cách mạng vùng ven thành
phố.
Tháng 3 năm 1953, chi bộ đảng Đống Khê đã tổ chức vận động vợ
lính đóng ở đình Đống Khê giao nộp 3 súng tiểu liên, súng trường và một hòm đạn
cho cách mạng. Ngoài ra còn vận động được 6 lính bỏ ngũ theo ta về với vùng
kháng chiến Tiên Lãng. Ông Bùi Đức Gắn còn cho biết thêm hai bố con, cụ Bùi Đức
Tuynh, con là Bùi Đức Thái là người liên lạc và tiếp tế lương thực, cơm nước
cho các cán bộ nằm vùng.
Năm 1949, ông Thái làm giao liên đưa tài liệu, vũ khí từ Miếu
Đông đến đình Khúc Trì thuộc phường Ngọc Sơn ngày nay cho du kích Kiến An. Bản
thân ông Bùi Đức Gắn cũng làm liên lạc cho cán bộ hoạt động ở miếu.
Các nhân chứng thời kháng chiến chống Pháp xác nhận:
Giấy xác nhận của ông Nguyễn Văn Sắt (1936), phường Đồng
Hoà, quận Kiến An xác nhận “Miếu Đông là nơi liên lạc, hoạt động của các đồng
chí cán bộ xã Đồng Hoà. Một thời gian dài từ 1948 -1953, là nơi có hầm bí mật cất
giấu tài liệu, vũ khí trong kháng chiến chống Pháp.”
Giấy xác nhận của ông Bùi Đức Hạnh (1930), phường Đồng Hoà,
quận Kiến An xác nhận “Miếu Đông là cơ sơ hoạt động của chi bộ Đảng Đống Khê
1948 – 1951."
Giấy xác nhận của ông
Bùi Đức Gắn (1936) xác nhận “Miếu Đông là cơ sở hoạt động bí mật của chi bộ Đảng
Đống Khê trong thời gian kháng chiến chống Pháp. Các đồng chí Thanh Xuân, Lê
Nam, Trịnh Đình Hoành đã về lãnh đạo hoạt động ở đây. Trong miếu có hầm bí mật
bảo vệ cán bộ và cất giấu tài liệu cùng vũ khí. Cơ sở ở đây đã thu được vũ khí
của địch, phá tề, trừ gian và nhiều chiến công khác. Bản thân ông cũng làm liên
lạc cho cơ sở Miếu Đông.”
Giấy xác nhận của ông
Bùi Đức Thái (1932) xác nhận “Trong thời gian kháng chiến chống Pháp, Miếu Đông
là một cơ sở hoạt động cách mạng của Tổ chức chi bộ Đảng Đống Khê – Đồng Hoà.
Năm 1949, bản thân ông làm giao thông liên lạc cho tổ chức Đảng ở Miếu Đông. Có
lần nhận vũ khí và tài liệu bí mật từ Miếu Đông chuyển đến đình Khúc Trì giao
cho du kích Kiến An.”
Lịch sử của di tích
Miếu Đông có lịch sử
hình thành từ lâu đời. Theo truyền ngôn, sau khi tân tạo đình Đống Khê vào niên
hiệu Tự Đức thứ 32 (1879), các chức sắc và hào phú trong làng cho xây dựng 3 miếu
để trấn trạch các hướng của làng, trong đó có Miếu Đông nằm ở hướng Đông.
Năm 1960, chủ trương thành lập hợp tác xã nông nghiệp Quyết
Thắng, cấp trên giao cho ban quản trị hợp tác xã lấy khu đất Miếu Đông là trụ sở
ban quản trị và nhà kho, sân kho, nhà mẫu giáo, trạm y tế, nên Miếu Đông tạm thời
bị dỡ bỏ.
Năm 2014, thể theo
nguyện vọng của toàn thể nhân dân trong xóm, chi hội người cao tuổi Đồng Tâm đã
mở hội nghị trưng cầu ý kiến, ý tưởng khôi phục Miếu Đông đã được nhân dân nhiệt
tình hưởng ứng cao, tự nguyện đóng góp công sức, kinh phí khôi phục lại Miếu
Đông.
Hoạt động văn hóa tín ngưỡng của di tích lịch sử
Trước đây, vào dịp tổ
chức lễ hội truyền thống (lễ hội mùa Xuân) ngày mùng 10 tháng 2 âm lịch, dân
làng thường rước chân hương từ miếu về đình dự tế. Sau lễ hội lại rước trở về
miếu an vị.
Hiện nay, vào dịp sinh nhật thánh ngày 16 tháng 3 âm lịch và
ngày hoá 12 tháng 10 âm lịch, bản miếu và nhân dân địa phương sửa soạn lễ Mộc dục
gồm có thủ lợn, mâm xôi để thành kính dâng lên Ngài. Nghi lễ được tổ chức nhằm
tưởng niệm công đức, bày tỏ sự tôn kính, ngưỡng vọng vị thần nhân và đồng thời
cầu cho quốc thái dân an, mưa thuận gió hoà, thuần phong mỹ tục của xóm làng,
duy trì sự đoàn kết của cộng đồng.
Kiến trúc của di tích lịch sử
Miếu Đông quay hướng
Tây Bắc, toạ lạc trên một khu đất rộng 879.5 m2. Phía trước miếu có khu dân cư
đông đúc, phía sau là cánh đông rộng mênh mông giúp cho không gian quanh di
tích đảm bảo được sự hài hoà, gần gũi giữa kiến trúc tín ngưỡng và cảnh quan
môi trường xung quanh.
Miếu có bố cục mặt bằng
hình chữ Đinh truyền thống gồm Tiền tế và Hậu cung, xây kiểu tường hồi bít đốc,
mái lợp ngói ta. Miếu được xây dựng bằng vật liệu hiện đại xi măng cốt sắt.
Tòa Tiền tế có mặt băng hình chữ nhật với ba gian, nền được
lát bằng gạch men và cao hơn mặt sân 0,5m. Tòa tiền tế được thiết kế theo phong
cách nghệ thuật thời Nguyễn, có hai bộ vì kèo bằng gỗ lim kiểu “cột trốn chồng
rường giá chiêng”, các cột được thay thế bằng tường bao xây gạch, vữa xi măng
chắc chắn. Hoa văn trang trí trên các bộ vì kèo được chạm khắc hình hoa sen,
mây cụm, lá lật.
Hậu cung Miếu Đông thiết kế kiến trúc một gian, xây tường
bao xung quanh. Hậu cung không có cột, các bộ vì đặt trên tường bao, nâng đỡ bộ
mái của toà Hậu cung.
Các gian của miếu được lắp đặt bộ cửa bốn cánh gỗ lim kiểu
thượng song hạ bản, trên cửa chạm khắc trang trí các đề tài tứ linh, hoa lá cách điệu.
Hậu cung Miếu Đông
Bát hương cổ trên ban thờ Thánh
Lãnh đạo quận Kiến An trao Bằng xếp hạng Di tích lịch sử thành phố Miếu Đông.
Những di vật, cổ vật lịch sử của di tích
Miếu Đông hiện nay
còn lưu giữ được một số di vật, cổ vật như:
- Bát hương: Chất liệu đá xanh,chạm trang trí rồng, mây cụm,
hoa lá thiêng; phần tai bát hương đã bị gãy và được đắp lại bằng xi măng. Niên
đại của Bát hương khoảng thế kỷ XIX.
- Tượng thành hoàng: tạc theo phong cách tượng tròn; chất liệu
gỗ. Tượng đầu đội mũ cổn cánh chuồn, trang trí rồng, hoa cúc. Áo tượng chạm rồng
mây, hổ phù thiếp vàng trên nền sơn thếp nâu đỏ. Tượng có niên đại cuối thế kỷ
19.
- Long ngai: chất liệu
gỗ, sơn son thếp vàng, bệ tam cấp được chạm khắc các đề tài chim, hoa cúc, hổ
phù. Niên đại của Long ngại vào khoảng cuối thế kỷ 19.
Giá trị văn hóa, lịch sử của di tích
Miếu Đông là công
trình tín ngưỡng mang nhiều giá trị lịch sử, văn hóa của người dân Đồng Hoà. Mặc
dù quy mô kiến trúc không rộng lớn, bề thế nhưng miếu còn lưu giữ được những cổ
vật, di vật có giá trị lịch sử, văn hóa và mỹ thuật. Đồng thời, Miếu cũng là một
điểm di tích trong huyền thoại về thần Cao Sơn.
Đồng thời Miếu Đông là nơi lưu giữ, trao truyền và duy trì
những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của làng Đống Khê, đồng thời là địa
chỉ đỏ trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
Các cổ vật, di vật hiện còn trong di tích Miếu Đông là những
tư liệu quan trọng giúp đời sau hiểu sâu về văn hoá tâm linh, tín ngưỡng của người
dân Hải Phòng trong lịch sử phát triển của đất nước.
Nguồn: Thành đoàn Hải Phòng