Vua Lê Đại Hành, thập đạo tướng quân Lê Hoàn cùng với các vị tướng nổi danh trong lịch sử dân tộc như vua Ngô Quyền, danh tướng Lý Thường Kiệt, danh tướng Trần Hưng Đạo, danh tướng Trần Khánh Dư… nổi bật về tài dụng binh thủy chiến.
Nghệ thuật sử dụng thủy binh của vua Lê Hoàn nổi tiếng nhất
là trận đánh quân Tống năm 981. Nhà vua chặn đánh đoàn quân xâm lược của nhà Tống
bằng kế đóng cọc ngăn sông Bạch Đằng, khiến đạo quân thủy của Lưu Trừng từ cửa
biển tiến vào bị cầm chân suốt 2 tháng.
Sử nhà Tống mô tả rằng, quân của Lưu Trừng sau khi tránh khỏi
chốt chặn ở Bạch Đằng, hợp với quân của Tôn Toàn Hưng theo đường thủy tiến đến
thôn Đa La, nhưng không gặp quân ta lại trở về Hoa Bộ.
“Đến đây, Lê Hoàn giả vờ xin hàng để đánh lừa Nhân Bảo. Nhân
Bảo mắc mưu, bị phục binh giết chết”, sử Tống viết.
Còn sử nước ta, bộ Đại Việt sử ký toàn thư cho rằng, ở đạo
quân bộ do Hầu Nhân Bảo chỉ huy, khi tiến đến sông Chi Lăng, bằng kế giả hàng,
quân ta dụ bắt được Hầu Nhân Bảo đem chém, khiến thủy quân Tống thua to.
Cánh quân của Trần Khâm Tộ theo đường sông Hồng vào đến Tây
Kết (Khoái Châu, Hưng Yên), nghe tin thủy quân thua phải rút quân về, bị quân
ta đuổi đánh, giết quân Tống quá nửa, thây chất đầy đồng, quân ta bắt sống được
các tướng Quách Quân Biện, Triệu Phụng Huân.
Từ đấy, đất nước yên bình.
Chiến thắng của thủy quân nhà Tiền Lê trên sông Bạch Đằng
góp phần quan trọng giúp cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược giành thắng
lợi vẻ vang, nền độc lập dân tộc được bảo toàn.
Trong các sách sử Trung Quốc như Tống sử bản kỷ hay Tục tư
trị thông giám có phần nói về trận chiến Bạch Đằng cũng có đề cập đến số liệu về
thủy binh của ta, như: “Thái Bình Hưng quốc năm thứ Sáu, tháng Ba ngày Kỷ Mùi
(28/4/981), Giao Châu hành doanh lại phá được giặc Giao Chỉ ở sông Bạch Đằng,
cướp được 200 chiến hạm. Nhưng tướng Hầu Nhân Bảo lại bị quân Giao Chỉ giết chết
ở trận này”.
Ngoài trận chiến nổi tiếng trên sông này, vua Lê Hoàn cũng
thể hiện tài năng trong việc điều khiển thủy quân trong các chiến dịch đường biển
khác.
Theo đường biển đánh vào Nam
Chiến dịch bằng đường biển lớn đầu tiên của nước ta vào thời
Tiền Lê, diễn ra vào năm Thiên Phúc thứ 3 (982), khi vua Lê Đại Hành đem quân
đi đánh Chiêm Thành. Đại Việt sử ký toàn thư viết: Vua thân đi đánh Chiêm
Thành, thắng được.
Nguyên nhân của chiến dịch là việc vua Chiêm Thành bắt hai vị
sứ giả của vua Lê là Từ Mục và Ngô Tử Canh. Sử viết: “Vua giận, mới đóng thuyền
chiến, sửa binh khí, tự làm tướng đi đánh, chém được Phê Mị Thuế tại trận,
Chiêm Thành thua to, bắt sống được binh sĩ không biết bao nhiêu mà kể”.
Sử thời này chép rất sơ lược, may vẫn còn ghi lại việc vua sắp
thuyền bè để tham chiến, chứ không nói chi tiết quân đi thế nào, đánh trận ra
sao. Có lẽ chiến dịch diễn ra không dễ dàng, vì Toàn thư viết rằng, vua xuất
quân đi “vừa một năm mới trở về kinh sư”.
Về đường đi của thuyền chiến, may là ở đoạn sử chép sự kiện
năm sau, cho biết: Khi vua đi đánh nước Chiêm, qua núi Đồng Cổ (ở Yên Định,
Thanh Hóa) đến sông Bà Hỏa (ở phía Nam huyện Tĩnh Gia, Thanh Hóa), đường núi hiểm
trở khó đi, đường biển thì sóng to khó đi lại, mới sai người đào đường kênh, đến
khi xong, thuyền bè đi lại đều được tiện lợi.
Năm 990, khi nhà Tống sai hai sứ thần là Tống Cảo và Vương
Thế Tắc sang phong cho vua Lê Hoàn thêm hai chữ “Đặc tiến” (trước đó vua đã được
phong làm An Nam đô hộ Tĩnh hải quân tiết độ sứ Kinh triệu quận hầu), ta thấy
nhà vua sai Nội chỉ huy sứ là Đinh Thừa Chính đem 9 chiến thuyền với 300 binh
sĩ sang tận Thái Bình quân, tức Liêm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc để
đón sứ bộ.
Lần này, sử ghi rõ là quá nửa tháng thì đoàn đón sứ về đến
sông Bạch Đằng, theo nước triều mà đi về tận kinh đô Hoa Lư.
Khi sứ đoàn đến gần kinh đô, vua Lê Hoàn ra tận ngoại thành
để đón. Có lẽ tự hào với lực lượng thủy quân của mình, vua “bày thủy quân và
chiến cụ để khoe”.
Vượt biển đánh ra Bắc
Không chỉ thủy quân của triều đình Tiền Lê lớn mạnh, mà
trong dân gian, nghề sông nước cũng đã dạn dày. Như sự kiện năm 995, các quan
binh nhà Tống báo lên vua Tống là có 100 chiến thuyền của dân Giao Chỉ sang cướp
trấn Như Hồng, thuộc Khâm Châu ở Quảng Đông, Trung Quốc.
Mùa hạ năm ấy lại có người châu Tô Mậu, tức vùng Nà Dương,
Đình Lập của Lạng Sơn ngày nay, đem 5.000 hương binh sang đánh cướp thành Ung
Châu nước Tống, bị viên Đô tuần kiểm là Dương Văn Kiệt đánh đuổi trở về.
Vua Tống lúc đó cũng muốn vỗ yên dân nước ta, không muốn dụng
binh, nên bỏ việc đó không hỏi đến. Viên Vận chuyển sứ Quảng Tây lộ là Trương
Quan cũng tâu dối về triều đình là vua Lê Hoàn bị họ Đinh đuổi, phải đem dư
chúng ra ngoài hải đảo, cướp bóc để tự cấp, nay đã chết rồi, nên bọn Trương
Quan dâng biểu mừng. Tuy nhiên vua Tống chưa tin, sai Thái thường thừa là Trần
Sĩ Long làm Thái phỏng sứ để dò xem hư thực thế nào, mới biết vua Lê không có
chuyện gì.
Năm 996, có người ở trấn Triều Dương, tức vùng Tiên Yên, Vạn
Ninh thuộc Quảng Ninh ngày nay, làm loạn rồi trốn sang đất Như Tích bên Tống,
được tướng nhà Tống chứa chấp. Đến khi nhà Tống cử viên chuyển vận sứ Quảng Tây
mới là Nghiêu Tẩu đến Như Tích, tra ra chuyện chứa giấu đó, gọi trấn tướng Triều
Dương của Đại Cồ Việt là Thành Nhã sang giao cho nhận về.
Vua Lê Hoàn cảm ơn nhà Tống, sai sứ sang tạ ơn, lại nói rằng
bắt được bọn giặc biển 27 người giao cho chuyển vận sứ. Khi nhà Tống sai Lý Nhược
Chuyết mang chiếu thư và đai ngọc sang ban cho vua, vua vẫn ra ngoài đón, không
chịu làm lễ rồi bảo Nhược Chuyết rằng: “Việc cướp trấn Như Hồng là bọn giặc biển
cõi ngoài, hoàng đế có biết đó không phải là quân Giao Châu không?”.
Thậm chí vua Lê Hoàn còn dõng dạc nói với sứ Tống: “Nếu Giao
Châu muốn làm phản thì đầu tiên đánh vào Phiên Ngung (thủ phủ của Quảng Đông),
rồi đánh đến Mân Việt, há chỉ có trấn Như Hồng mà thôi ư?”. Nói xong lời tuyên
bố hùng hồn này, vua Lê Hoàn mới cúi đầu tạ lỗi.
Năm 997, nhà Tống phong vua làm Nam Bình vương, vua Lê Hoàn
sai sứ sang thăm nước Tống đáp lễ, được vua Tống ban chiếu thư khen ngợi. Trước
kia, vua Tống thường mượn tiếng đòi nước ta cống nước mắm để nhân thể bắt đóng
góp. Đến năm đó, Tống Chân Tông lên ngôi, nghe chuyện ấy, nên chỉ sai quan giữ
biên giới đến nhận mệnh, không sai sứ sang nữa.
Việc dùng thủy quân của vua Lê Hoàn còn được ghi vào năm
1001, trong sự kiện nhà vua đi đánh dẹp ở Cử Long, tức vùng đất Mường thuộc huyện
Cẩm Thủy, Thanh Hóa ngày nay. Khi quân giặc rút lui, vua cho thuyền theo dọc
sông để đuổi. Trận này quân giặc bày trận ở hai bên bờ sống để chống lại thuyền
binh của vua bị hãm ở sông, bắn chết vua cũ nhà Đinh là Vệ vương Đinh Toàn tại
trận. Vua Lê Hoàn thương tiếc, kêu trời ba tiếng rồi thúc quân đánh giặc tan vỡ.
Để phục vụ đường thủy, năm 1003, vua Lê Hoàn lại đi Hoan
Châu (Nghệ An ngày nay), cho vét kênh Đa Cái, tức là kênh Hương Cái, ở huyện
Hưng Nguyên, đoạn kênh này nối kênh Sắt với sông Lam, vua cho nối thẳng đến Ân
Củng trường ở Ái Châu (Thanh Hóa).
Nhận định về chiến công hiển hách của vua Lê Đại Hành, sử thần
Ngô Sĩ Liên cho rằng: “Vua đánh đâu được đấy, chém vua Chiêm Thành để rửa cái sỉ
nhục phiên di bắt giữ sứ thần, phá tan quân Triệu Tống để bẻ cái mưu vua tôi ăn
chắc, có thể gọi là bậc anh hùng nhất đời vậy”.