Sau khi đức vua Phùng Hưng mất, nhân dân khắp nơi đã dựng đền phụng thờ. Hà Nội là quê hương người anh hùng, cho nên cũng là nơi có nhiều di tích, di sản liên quan đến ông nhất.
ĐÌNH, ĐỀN, MIẾU THỜ PHỤNG BỐ CÁI ĐẠI VƯƠNG PHÙNG HƯNG
VÀ NHỮNG MƯU THẦN, VÕ TƯỚNG CỦA VUA
Tiến sĩ PHÙNG THẢO
1- Lăng Bố Cái Đại Vương, phường Cát Linh, quận Đống Đa,
thành phố Hà Nội.
Lăng Bố Cái Đại Vương - vua Phùng Hưng, phường Cát Linh, Hà Nội
2- Đền thờ Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng ở thôn Cam Lâm, xã Đường
Lâm, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội.
Theo thần tích lưu tại đền, đền thôn Cam Lâm dựng từ rất
lâu, đền thờ Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng làm Thành hoàng. Ngài là nhân thần. Đền
làng tọa trên gò đất cao giữa làng, xung quanh đền dân cư đông vui, có vườn cây
lâu niên, nhiều cổ thụ và nhiều loại cây quý xanh tốt quanh năm biểu thị sự trường
tồn. Ở đền hiện còn lưu giữ 13 đạo sắc phong:
- Chính Hòa thứ 4; Gia Long thứ 9; Cảnh Thịnh thứ 4; Tự Đức
thứ 3; Chiêu Thống thứ nhất; Tự Đức thứ 33; 2 đạo Minh Mệnh thứ 2; Thiệu Trị thứ
4. 3 đạo Thiệu Trị thứ 2. Duy Tân thứ 3.
Đức ngài Phùng Hưng quê ở ấp cổ Đường Lâm, thôn Cam Lâm, nay
thuộc xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội. Tổ tiên của Ngài là Phùng
Trí Cái, khoảng năm 618 đến năm 626 đời nhà Đường nguyên hiệu Vũ Đức được vua
Đường hạ chiếu chỉ về hầu yến tiệc, người có tài ngâm thơ, ca hát, được vua
khen là Hồ-Việt một nhà. Sau đó cho về nguyên quán và đời đời được nối chức
Châu phủ gọi là Quan lang ở Đường Lâm.
Thân phụ của Ngài là Phùng Hạp Khanh. Năm Nhâm Tuất 722 niên
hiệu Khai Nguyên đời Đường, Phùng Hạp Khanh tham gia cuộc khởi nghĩa do đức
ngài Mai Thúc Loan lãnh đạo đánh đuổi quân đô hộ nhà Đường. Sau vì việc không
thành phải trở về quê để chăm lo ruộng vườn. Ông phát triển nghề nông, tích lũy
lương thực hòng mưu việc lớn sau này.
Phùng Hạp Khanh sinh được ba người con trai: Phùng Hưng,
Phùng Hải, Phùng Dĩnh. Phùng Hưng nối nghiệp cha làm hào trưởng ở đất Đường
Lâm. Phùng Hưng là người có sức khỏe phi thường, mưu lược, luôn giúp đỡ người
nghèo khó.
Năm Đinh Mùi 767, đời Đường Đại Lịch, nhà Đường suy yếu,
quan quân tham nhũng, Cao Chính Bình khét tiếng gian tham, bắt dân ta nộp sưu
cao thuế nặng, giết hại dân lành, lòng người căm giận.
Ba anh em phất cờ khởi nghĩa (767-791), Phùng Hưng lấy hiệu là Đô Quân, phong cho em
Phùng Hải là Đô Bảo tướng quân, Phùng Dĩnh là Đô Tổng. Ba anh em ra sức luyện tập
binh sĩ, tích trữ lương thực, chiêu dụng hiền tài từ các nơi kéo về tụ nghĩa,
chuẩn bị khí giới để đánh đuổi quân xâm lược.
Năm Tân Mùi 791, đời Trinh Nguyên thứ 7 khi đã chuẩn bị lực
lượng nghĩa quân vững mạnh, ba anh em đức vua đem đại quân tiến công, vây hãm
thành Đại La (phủ Tống Bình). Cao Chính Bình không cự nổi, thua to, sinh bệnh
mà chết.
Phùng Hưng giành được thắng lợi, ông chiếm phủ lỵ, chấn chỉnh
lại việc nước, xây dựng nền độc lập lâu dài. Nhưng chẳng được bao lâu, ông lâm
bệnh rồi mất ngày 8 tháng Giêng năm 799. Nhân dân rất thương tiếc, suy tôn ông
là Bố cái Đại Vương coi như cha mẹ của nhân dân.
Hàng năm, đến ngày 8 tháng Giêng âm lịch, Đảng bộ, chính quyền,
nhân dân xã Đường Lâm và nhân dân thập phương tụ hội về đền tổ chức lễ hội, tế
lễ, kỷ niệm để tưởng nhớ công đức vị anh hùng dân tộc và noi theo truyền thống
kiên cường bất khuất của tổ tiên khi xưa.
Đền Cam Lâm là Di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia.
3- Đình Đoài Giáp, xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây, thành phố
Hà Nội.
Theo lưu truyền dân gian trong vùng, tư liệu Hán Nôm lưu giữ
ở đình Đoài Giáp và các cụ cao lão trong làng cho biết, đình Đoài Giáp thờ
Thành hoàng làng là Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng.
Đình được dựng từ thời Ngô Quyền, hiện nay tại đình đang lưu
giữ một tấm bia đá được khắc từ ngày 13 tháng 4 năm Hồng Đức (1473) đời vua Lê
Thánh Tông viết về thân thế sự nghiệp của Phùng Hưng. Thần tích trong đình ghi
rõ:
Đức ông Phùng Hưng quê ở ấp Cổ Đường Lâm, nay thuộc thôn Cam
Lâm, thị xã Sơn Tây, tỉnh Hà Tây.
Tổ tiên ngài là Phùng Trí Cái, khoảng năm 618 đến năm 626 đời
nhà Đường niên hiệu Vũ Đức được vua Đường hạ chiếu chỉ về hầu yến tiệc, người
có tài ngâm thơ, ca hát, được vua khen là Hồ - Việt một nhà. Sau đó cho về
nguyên quán và đời đời được nối chức Châu phủ gọi là Quan lang ở Đường Lâm.
Thân phụ của Ngài là Phùng Hạp Khanh. Năm Nhâm Tuất 722 niên
hiệu Khai Nguyên đời Đường, Phùng Hạp Khanh tham gia cuộc khởi nghĩa do Mai
Thúc Loan lãnh đạo đánh đuổi quân đô hộ nhà Đường. Sau vì việc không thành phải
trở về quê để chăm lo ruộng vườn. Ông phát triển nghề nông, tích lũy lương thực
mưu việc lớn sau này.
Phùng Hạp Khanh sinh được ba người con trai: Phùng Hưng,
Phùng Hải, Phùng Dĩnh. Phùng Hưng nối nghiệp cha làm hào trưởng ở đất Đường
Lâm. Phùng Hưng là người có sức khỏe phi thường, mưu lược, luôn giúp đỡ người nghèo
khó.
Năm Phùng Hưng 18 tuổi, cha mẹ đều qua đời, 3 anh em ở với
nhau hòa thuận, hiếu kính, hay làm những việc nhân đức, nhân dân trong vùng nhiều
người mến phục. Ngài nối nghiệp cha làm hào trưởng ở Đường Lâm. Ba anh em nối
chí người cha tích lũy lương thảo chiêu tập người hiền, luyện tập binh sĩ mong
mưu việc lớn.
Phùng Hưng có sức khỏe phi thường, vật ngã được trâu, tay
không đấm chết hổ, thanh niên trai tráng trong vùng theo học rất đông, nhân dân
và các tù trưởng trong vùng đều kính nể. Bọn quan đô hộ nhà Đường rất lo sợ.
Năm Đinh Mùi 767, đời Đường Đại lịch, nhà Đường suy yếu dần,
quan quân tham nhũng, Cao Chính Bình khét tiếng gian tham, bắt dân phải nộp sưu
cao thuế nặng, giết hại dân lành, khiến lòng người vô cùng căm giận.
Trước tình hình đó, Phùng Hưng bàn cách với hai em cứu dân,
cứu nước. Ba anh em chuẩn bị lương binh, khí giới, chiêu dụng hiền tài từ các
nơi kéo về tụ nghĩa để chuẩn bị đánh đuổi quân xâm lược. Phùng Hưng lấy hiệu là
Đô Quân, phong em Phùng Hải là Đô Bảo tướng quân, Phùng Dĩnh là Đô Tổng. Năm
Tân Mùi 791, đời Trinh Nguyên thứ 7, khi đã chuẩn bị lực lượng vững mạnh, Phùng
Hưng đem đại binh tiến công vây đánh phủ thành Tống Bình. Tên quan đô hộ Cao
Chính Bình không chống cự nổi bị thua to, lo lắng sinh bệnh mà chết.
Giành được thắng lợi, Phùng Hưng chiếm phủ lỵ, chấn chỉnh lại
việc nước, mong xây dựng nền độc lập lâu dài. Nhưng chẳng được bao lâu, Phùng
Hưng lâm bệnh rồi mất vào ngày 8 tháng Giêng năm 799. Nhân dân vô cùng thương
tiếc, suy tôn ngài là Bố cái Đại Vương, coi ngài như cha mẹ của nhân dân và lập
đền thờ ở quê hương cùng nhiều nơi khác để tưởng nhớ công ơn to lớn của người
anh hùng dân tộc và lưu truyền lại cho hậu thế.
Hiện nay ở hậu cung Đình Đoài Giáp còn lưu giữ tấm bia đá được
khắc vào ngày 13 tháng 4 năm Hồng Đức 4 (1473) đời vua Lê Thánh Tông ghi lại
công lao của Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng trong cuộc chống xâm lược nhà Đương.
Bia được dịch như sau:
“Quan viên, sắc mục, xã trưởng, thôn trưởng và mọi người ở
giáp Tây xã Cam Giá huyện Phú Lộc, phủ Quốc Oai làm việc lập bia thờ phụng.
Nguyên giáp ta ở liền với xã Cam Tuyền, vào thời Sơ Đường,
quý xã đời đời sinh hào kiệt, Vương họ Phùng, tên là Hưng, dòng dõi hào phú,
thường bỏ của riêng ra chu cấp cho người nghèo khó. Vương là người khỏe mạnh
can đảm. Một hôm có hai con trâu đánh nhau. Vương nghe tin liền chạy đến dùng
hai tay nắm chặt lấy sừng của hai con trâu. Đầu hai con không sao lắc được nữa.
Vương liền đẩy mỗi con trâu đi ra một chỗ. Mọi người đều khen là bậc thần vũ.
Lại một lần trong vùng có một con hổ dữ thường hay làm hại
dân. Vương liền làm hình nộm tay cầm chùy đứng ở bên đường nơi nhiều người qua
lại. Con hổ trông thấy liền nhảy vào vồ, té ra là hình nộm. Từ đó về sau, khi
đi qua hổ không thèm để ý nữa. Vương liền cầm chùy sắt đứng thay chỗ hình nộm.
Hổ lại đi qua, tỏ ý coi thường. Vương liền nhảy ra vít đàu hổ xuống đánh chết,
rồi quặp hai chân hổ vào cổ kéo về. Mọi người không ai là không kính phục, tiến
đồn vang xa các thôn bên cạnh, họ đều tỏ ý tôn kính.
Bấy giờ Cao Chính Bình làm quan đô hộ, hình phạt tàn ác, thuế
má nặng nề. Vương liền cầm đầu con em đứng dậy khởi nghĩa. Người quanh vùng xa
gần nô nức theo về, suy tôn em trai Vương là Phùng Hải làm Đô Bảo. Nghĩa quân
kéo đến đánh Cao Chính Bình, bao vây phủ Đô hộ, nghĩa quân toàn thắng.Vương vào
phủ trông nom công việc, đất nước được yên ổn, giáp ta được hưởng vinh quang,
nhận ơn giáo hóa rất nhiều.
Sau khi Vương mất, liền định lệ thờ phụng, dựng miếu thờ lấy
hiệu là điện Tây Cung. Qua bao biến cố, vật đổi sao dời, nay dựa theo nền cũ,
xây dựng miếu thờ mới, nhân thuật lại sự tích theo bia của quí xã, lại cho khắc
vào đá để lưu truyền lâu dài.”
Bài minh rằng:
Duy nhạc thánh thần
Thực trời sinh đức
Đánh hổ tài cao
Can trâu dùng sức
Tích phát Tản Sơn
Công tại Nam quốc
Uy đức rỡ ràng
Anh linh sáng rực
Muôn thuở phúc thần
Vạn đại huyết thực
Trên điện nguy nga
Dưới chân chầu chực
Thuật lại lời minh
Kính thành bất hoặc.
Ngày 13 tháng 4 năm Hồng Đức 4 (1473)
Kính cẩn khắc thánh bi.
* Đình Đoài Giáp là Di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia
4- Đình Tổng, thôn Đông Sàng, xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây,
thành phố Hà Nội. (Di tích lịch sử quốc gia).
5- Đình Triều Khúc - thôn Triều Khúc, xã Tân Triều, huyện
Thanh Trì, thành phố Hà Nội.
Đình Triều Khúc Hà Nội
Theo tục truyền, Đại đình được cắm đất dựng vào năm Canh Ngọ
(790). Sau khi Phùng Hưng mất, Phùng An nối ngôi đã cho các bậc hiền thần tìm
những nơi có dấu tích vua cha để lập miếu thờ. Triều Khúc là một trong những
nơi thờ Ngài, nhà vua cử người về Triều Khúc cắm đất năm Canh Ngọ (790) trên gò
Lĩnh Hán nơi Phùng Hưng đặt đại bản doanh xưa. Đến mùa xuân năm Tân Mùi (791) mới
bắt đầu dựng miếu tuy nhỏ nhưng được dân giữ gìn lâu đời nên gọi “Đại Cổ Miếu”.
Đến đời Lê Trung Hưng mới đổi thành đình. Sự kiện trên được ghi lại bằng câu đối:
Chính gốc từ Hồng Bàng trở lại, trong đế, ngoài vương, cha mẹ
xưng hô truyền nước Việt
Miếu thiêng từ Đường Đại Lịch, Đông Tô, Tây Nhuệ, sông núi
linh khí họp mây rồng.
Đình hiện còn lưu giữ 11 đạo sắc phong của các triều đại
phong cho thần.
- Đình Triều Khúc thờ Bố Cái Đại Vương làm Thành hoàng và phối
thờ các tướng của Phùng Hưng:
+ Đệ nhất khai quốc công thần Cự lão Đô tướng quân Phùng Hải.
+ Đệ nhị khai quốc công thần Cự lực tướng quân Phùng Dĩnh.
+ Đệ tam khai quốc công thần Xanh lực tướng quân Đỗ Anh Hàn.
+ Đệ tứ khai quốc công thần Xanh lực tướng quân Bồ Phá Cần.
Hiện nay ở đình Triều
Khúc còn lưu giữ các tư liệu: Việt Điện U Linh tập và Ngọc phả “Sự tích Đại Đô
thành hoàng Phùng Đại Vương”. Xin được đưa hai tài liệu vào bài viết này để
nghiên cứu và đối chiếu:
Việt Điện U - Linh tập
“Đức Phùng Hưng tên chữ là Công Phấn. Quê ở đất Đường Lâm
thuộc Châu Giao. Tổ tiên ngài là Phùng Trí Đới (Cái) trong thời Vũ đức nhà Đường
vân chiếu chỉ vào chầu, hầu yến tiệc Vua Đường Cao Tổ. Vua Cao Tổ sai vịnh thơ
cùng với sứ Đột Quyết hầu tiệc để cho tiếng nói của người Hồ người Việt hợp lại
một nhà.
Sau vua khen thưởng và ban lệnh cho trở về hưởng quyền Thế Tập,
đời đời làm chức Lại ở phủ Đô Hộ trong bản châu, cũng là chức Thổ tù đất Đường
Lâm mà tục gọi là Quan lang.
Khi Phùng Trí Đới (Cái) chết, con là Gia Cái nối dõi. Gia
Cái chết, con là Yết Năng nối dõi. Yết Năng chết, con là Kiều Năng nối dõi. Kiều
Năng chết, con là Kiến Khởi nối dõi. Kiến Khởi chết, con là Hạp Khanh nối dõi.
Hạp Khanh là người hiền tài, có đức. Khoảng năm Nhâm Tuất
(722) niên hiệu Khai Nguyên, đời vua Huyền Tông nhà Đường, theo vua Mai Hắc Đế
khởi nghĩa.
Việc ấy bị phát giác, ông bị cách chức quan, rồi trở về nhà
làm ruộng, Hạp Khanh thường phiền muộn không vui, bà vợ là người họ Sử thầm biết
được ý ông, bèn khuyên rằng: “Bậc trượng phu ở trong đời băn khoăn gì cảnh ngộ
chìm nổi. Việc chưa thành đạt là tự số trời. Nếu cứ u uất buồn phiền chỉ tự làm
hao tổn chí khí bình sinh. Chẳng gì bằng cứ giữ vững tinh thần, mở mang phương
tiện. Nên khuôn phép cho người sau theo. Nối chí lớn của người trước, mở rộng một
qui mô để dài hưởng ngày trời, ít nhất cũng cho một nhà được toại nguyện, bớt
lo lắng triền miên, giữ được tương lai cho gia đường, lại chẳng đã tốt lắm sao.
Từ đó Hạp Khanh dốc sức chăm bón ruộng vườn, chính mình làm
nghề nông, chỉ qua mấy năm đã rất giàu có, gia tài tích lũy đến hàng trăm, triệu,
dưới cửa có mấy nghìn người ra vào.
…Ông bà Hạp Khanh sinh một lần được 3 người con trai, diện mạo
đều khác thường, đến khi lớn ba người con đều khỏe mạnh, có sức vật trâu, bắt hổ,
liền đặt tên cho người con trưởng là Phùng Hưng, tự Công Phấn, người thứ hai là
Hải, tự Tử Hào, người thứ ba là Dĩnh, tự Danh Đạt.
Năm 18 tuổi cha mẹ đều chết cả, ba anh em đều thuận hòa, hiếu
kính, tỏ rõ ân nghĩa, giúp đỡ nhiều người Châu quận.
Đến năm Đinh Mùi niên hiệu Đại Lịch nhà Đường ở Châu thành xảy
ra vụ cướp của Côn-Lôn, Đồ-Bà, Vũ Đình
Úy là Cao Chính Bình sang cứu phá được. Chính Bình lại ra oai, đàn áp dân ta vô
cùng khổ nhục. Nhưng chưa được mấy năm, thì vua Đường lại chọn Trương Ung Kế
sang làm kinh lược sứ An Nam.
Chính Bình lo bị Ung Kế giành quyền, đã tìm cách ám sát Ung
Kế. Bọn tay chân của Ung Kế là Nguyên Khánh, Hồ Hoài Nghĩa bí mật tìm đến với
Phùng Hưng bàn mưu khởi nghĩa, để đánh chiếm quận ấp.
Chính Bình báo việc đó về triều Đường. Vua Đường liền sai Lý
Phục làm Tiết độ sứ, cất quân đánh dẹp. Bọn Hoài Nghĩa, Nguyên Khánh đều bị Lý
Phục giết chết. Lý Phục lại tuyên dụ dân chúng, tu sửa thành quách, rồi dẫn
quân về.
Phùng Hưng bàn cùng em là Phùng Hải, Phùng Dĩnh lập mưu chiếm
đất Đường Lâm, thu hút được mấy vạn dân theo, uy danh sang đến các ấp bên cạnh.
Hưng tự đặt hiệu là Đô Quân, Hải đặt hiệu là Đô Bảo, Dĩnh đặt hiệu là Đô Tổng,
rồi chia nhau chiếm giữ các nơi hiểm yếu, chứa lương, mộ quân, thế lực rất mạnh.
Chính Bình kéo quân đến dẹp. Rút cục không thắng nổi, giằng co nhau hơn 20 năm.
Đến năm Tân Mùi niên hiệu Trinh Nguyên đời vua Đường Đức
Tông, tên Chính Bình bắt dân gánh thuế nặng, cai trị hà khắc, nhân dân ta không
chịu nổi, ai cũng rầu rĩ oán thán. Phùng Hưng bèn họp các chư tướng bàn kế đánh
giữ…
Phùng Hưng nghe theo kế của mưu sĩ người làng là Đỗ Anh Hàn
chia đại quân thành 8 mũi tấn công vây chặt thành Tống Bình. “Hai bên mở trận
đánh lớn, suốt bảy ngày đêm quân Đường chết không biết bao nhiêu, máu đỏ ngầu
sông Nhị, sông Tô khiến bọn Cao Chính Bình phải rút quân vào thành, lo sợ quá
phát bệnh ung thư mà chết. Phùng Hưng vào thành bắt hết gia tộc Cao Chính Bình
đem giết đi, rồi yên dân sửa lại thành trì và làm lễ tức vị xưng vương, khao
thưởng tướng sĩ định quốc luật, trị vì trong nước yên vui… gần được mười năm
thì ngài băng hà.
(Lịch năm 2000 năm, năm Giáp Thìn (764)Phùng Hưng khởi
nghĩa, năm Nhâm Tuất (782) xưng là Bố Cái Đại Vương, năm Kỷ Tỵ (788) đời Phùng
An, có thể Ngài mất.)
Chư tướng triều thần bèn lập vương tử Phùng An lên ngôi tuổi
còn nhỏ và nghe lời xiểm nịnh của kẻ gian thần, cho xuất quân đi để chống lại
Phùng Hải và Phùng Dĩnh, hai ông than rằng: “chung sức cần lao xây dựng cơ đồ
đã hơn hai mươi năm nay, không ngờ hôm nay xẩy ra đến việc này, phải chăng lòng
trời chưa muốn khôi phục lại cơ đồ Việt Lạc, để cho tình cốt nhục tương tàn, thật
là điềm chẳng tốt”. Rồi Phùng Hải cùng em là Phùng Dĩnh vứt bỏ vũ khí thay họ đổi
tên, dấu mình trong động Chu Nham.
Người trong nước bấy giờ cho là bậc hiền giả. Phùng An lên
ngôi suy tôn cha là Hưng hiệu Bố Cái Đại Vương. “Bố” có nghĩa là cha, “Cái” có
nghĩa là mẹ. Cũng tháng 5 năm đó nhà Đường lại lấy quân Nhu Viễn Phủ Trị và cử
Triệu Xương là Đô-Hộ. Tháng 7 ngày canh dần, Triệu Xương xuất quân tiến xuống
phía Nam đánh phá đồn trại, quân tướng ta tan vỡ bỏ chạy. Ngày Mậu Tý quân Đường
đóng chật dưới chân thành. Trong thành trở nên hỗn loạn, mọi người đành phải ra
hàng!
Triệu Xương dụ dỗ Phùng An ra làm chức Tư Mã, rồi phủ dụ dân
chúng, do đó các tướng hiệu của vua Phùng dần cũng tiêu tan, quốc thống nước ta
lại mất về tay giặc. Chỉ riêng nhóm Đỗ Anh Luân không tuân theo mệnh lệnh củaTriệu
Xương thì đều bị Triệu Xương giết chết.
Kể từ khi vua Đại Tông nhà Đường năm thứ hai là năm Giáp
Thìn (764) Đức Phùng Hưng tế cờ khởi nghĩa cho đến khi mất là 25 năm.
Sau khi Ngài mất rất hiển linh dân tôn làm thần, lập đền thờ
ở phía Tây làng Thịnh Hào Hà Nội. Thời gian sau đem về quê Ngài ở thôn Cam Giá
xã Đường Lâm chôn và lập đền thờ.
Thôn Cam Giá có hai vua hai đền thờ:
1- Đức Phùng Hưng.
2- Đức Ngô Quyền.
Thời nhà Trần có lập bia: NHẤT ẤP NHỊ VƯƠNG.”