Danh tướng Ngọc Quang Công chúa Vương Tiên, người động Hoa Lư, Trường Yên, Ninh Bình, tham gia cuộc khởi nghĩa nhị vua Hai Bà Trưng đánh đuổi Tô Định. Công chúa Vương Tiên được thờ phụng tại đền Sậy, Trường Yên, Ninh Bình.
Dưới thời thuộc Hán, ở thôn Cự Lai xã Sơn Dược thuộc động
Hoa Lư, phủ Trường Yên, Ninh Bình, có vợ chồng ông Vương Khôi hiền lành, nhân đức,
chăm làm việc thiện nhưng đứng tuổi rồi mà vẫn chưa có con.
Hai ông bà thường cầu khấn khắp nơi, mong trời phật phù hộ độ
trì, và bản thân cũng chăm làm nhiều việc thiện hơn nữa. Một đêm, bà Vương đang
nằm bỗng thấy lâng lâng tựa như đang bay bổng lên không trung, rồi thấy mình được
dẫn vào một cung điện.
Vị tiên chủ ra tiếp đón rất nồng hậu rồi ân cần nói: “Đây là
điện Ngọc Quang. Lượng trời vốn chẳng hẹp. Lòng thành của hai ông bà đã được
soi tỏ, nên Ngài đã cho một tiên nữ trong điện này xuống đầu thai làm con của
ông bà”. Nói xong, tiên chủ cho gọi tiên nữ ra. Bà Vương mừng quá, vội vàng đứng
dậy thi lễ …
Ngồi lại nói chuyện một lát, bà Vương thấy có tiên nữ nữa đến
mời tiên chủ đi tiếp kiến Ngọc Hoàng, thế là bà đứng dậy xin phép ra về. Vừa ra
khỏi cung điện, đi được một quãng, bà Vương cảm thấy như chạm vào một vật gì đó
và người bỗng hẫng lại. Thế là bà tỉnh mộng.
Bà kể lại câu chuyện đó với chồng, và cả hai ông bà đều vô
cùng mừng rỡ. Quả nhiên, chín tháng mười ngày sau bà Vương trở dạ, sinh được một
bé gái mặt hoa da phấn, cực kỳ xinh đẹp. Nhớ lại lần thần mộng, hai ông bà đặt
tên cho con là Tiên. Ôi! Rõ là cầu được ước thấy, nỗi vui của hai ông bà thực
không nói sao cho hết! Càng lớn lên nàng Tiên mỗi ngày càng thêm lộng lẫy, xinh
đẹp. Lại chăm chỉ, nết na và thông thuệ khác thường.
Khi ấy, dưới ách đô hộ của nhà Hán, lòng người ai nấy đều
căm giận, cho nên khắp nơi đều có lò luyện võ và mọi người chỉ chờ thời cơ là đứng
dậy khởi nghĩa. Nàng Tiên, cũng như mọi người, đêm ngày hăng say tập luyện, và
trong số các môn sinh, nàng nổi bật lên như một nữ tướng siêu phàm, chẳng những
tinh tường các ban võ nghệ mà binh pháp, trận đồ cũng đều thông tỏ làu làu.
Tiếng lành đồn xa, khắp cả một vùng Trường Yên rộng lớn, ai
ai cũng khâm phục và người người đều náo nức tìm về. Các trận thi đấu võ nghệ,
các lần bày binh bố trận, thảy đều chứng tỏ nàng Tiên là người tài năng, trí lực
phi thường. Lại có phong thái hết mực ung dung, đàng hoàng.
Thế là mọi người nhất tề tôn phù nàng Tiên lên làm chủ tướng.
Năm ấy nàng Tiên vừa tròn 18 tuổi.
Cũng năm ấy, cả hai ông bà bố mẹ nàng đều già yếu rồi nối
nhau lần lượt qua đời. Nàng Tiên lo cư tang báo hiếu bố mẹ đầy đủ rồi lại cùng
mọi người lao vào tập luyện. Chẳng mấy chốc quân số của nàng đã lên tới mấy
ngàn người, khí giới được trang bị đầy đủ, lại có đủ lương thực dự trữ. Nàng
Tiên dẫn quân đi chiếm phủ Trường Yên và các vùng xung quanh. Quân giặc chống cự
yếu ớt rồi sợ hãi bỏ chạy. Thanh thế của nàng Tiên lừng lẫy khắp các miền.
Cùng thời gian này, nhị vua Hai Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa.
Nhận được Hịch dấy cờ khởi nghĩa đánh giặc Hán của chúa Mê Linh, nàng Tiên dẫn
quân bản hộ về Mê Linh … Đêm hôm trước ngày tụ nghĩa, chúa Trưng Trắc nằm mộng
thấy sứ thần trên trời xuống báo ngày mai có nàng Tiên ở điện Ngọc Quang sẽ đến
ra mắt. Sứ thần còn tả cả dung mạo, trang phục của nàng Tiên rồi mới trở về trời.
Sáng hôm sau, đang còn hồ nghi về giấc mộng đêm qua thì nhị
vua Hai Bà Trưng được báo có vị nữ tướng ở Trường Yên đến xin yết kiến. Nhị vua
Hai Bà Trưng gọi vào thì quả nhiên đúng như lời vị sứ thần đã báo trước. Nhị
vua Bà cả mừng, sắc phong cho nàng Tiên là Ngọc Quang công chúa, rồi giữ lại ở
bên mình, chỉ huy đạo quân ở trung lộ, tiến đánh Luy Lâu.
Khi đánh đuổi xong Tô Định, nhị vua Hai Bà Trưng lên ngôi đế,
Ngọc Quang công chúa được cấp thực ấp ở Trường Yên và cai quản cả một vùng Châu
Ái. Mã Viện kéo quân sang, nhị vua Hai Bà Trưng điều binh xuất trận, giao chiến
ác liệt với giặc ở Lãng Bạc rồi rút về Cẩm Khê, tiếp tục chiến đấu.
Nữ tướng Ngọc Quang Công chúa cũng kịp xuất quân từ Trường
Yên ra trợ chiến. Bà phi trên mình ngựa múa trường thương, xông pha giữa trận
tiền, vừa giết giặc vừa bảo vệ nhị vua. Quân ta vừa đánh vừa rút lui. Trên mình
bà mang hơn mười vết thương nhưng không hề giảm sức chiến đấu. Nhị vua Hai Bà
Trưng chạy về phía cửa sông Hát, còn nàng Tiên dẫn tàn binh mở một đường máu chạy
về xã Mã Phan thuộc huyện Lập Thạch, Vĩnh Phú ngày nay, chỉ còn lại có 14 thân
binh bên cạnh.
Quân giặc vẫn đang ráo riết đuổi theo. Bà hét lên thúc binh quay
lại tử chiến. Giặc lăn ra chết hàng loạt nhưng phía quân ta, tất cả thân binh đều
thiệt mạng. Trong đêm tối, một mình một ngựa, bà chạy miết về phía nam, xuống
phủ Thiên Trường, kẻ thù cũng không dám đuổi theo nữa.
Đến địa đầu xã Hữu Bị thuộc huyện Mỹ Lộc, Nam Hà ngày nay,
trước mặt là dòng sông rộng nước chảy xiết, cũng là lúc sức cùng lực kiệt, bà
ngửa mặt lên trời khấn: “Xin phó thác thân này cho sông nước.Cầu xin trời đất
cho trôi về bản quán, đừng để rơi vào tay lũ giặc tanh hôi”.
Khấn xong bà phóng ngựa xuống sông tự vận. Đó là rạng sáng
ngày 12 tháng 12 Âm lịch. Mấy hôm sau, ở mé bờ sông thuộc địa phận Cự Lai, Ninh
Bình có xác người, ngựa trôi dạt vào. Dân chúng đổ ra xem, thấy vị chủ tướng cũ
của mình, vô cùng thương xót, bèn cùng nhau kính cẩn vớt lên, làm lễ an táng rồi
sau đó lập đền thờ. Tôn hiệu vẫn giữ là Ngọc Quang Công Chúa.
Từ đó Ngọc Quang công chúa thường hiển linh, phù hộ độ trì
cho dân cho nước. Đời Lý Thái Tông, nước ta có hạn hán lớn. Nhà vua sai lập đàn
tràng cầu mưa. Đêm hôm ấy, Lý Thái Tông vừa chợp mắt, trông thấy một nàng công
chúa từ xa tiến lại. Nhà vua bèn ngồi dậy hỏi chuyện.
Công chúa cho biết mình đang ngự tại thôn Cự Lai, vâng mệnh
Ngọc Hoàng đã làm mưa theo lời cầu khẩn của nhà vua. Lý Thái Tông tỉnh dậy,
nhìn ra ngoài, quả nhiên lúc ấy trời đang đổ nước xuống như trút.
Hôm sau thiết triều sớm, vua truyền cho Quốc sử quán và bộ Lễ
tra cứu lai lịch các vị thần. Khi được biết thần thành hoàng thôn Cự Lai là Ngọc
Quang Công chúa, nhà vua bèn gia phong thêm hai chữ nữa, gọi đầy đủ là: “Ngọc
Quang Thiên Lương Công chúa”.
Đền Sầy xã Sơn Thành, thờ phụng Ngọc Quang Thiên Lương Công chúa Vương Tiên
Đền Sầy thuộc thôn Sầy, xã Sơn Thành được xây dựng vào năm
1326, đền quay hướng Đông Bắc, tọa lạc trên vùng đất cao rộng khoảng hơn 2000m2
là nơi thờ cúng, tưởng niệm Bà Vương Tiên (Ngọc Quang công chúa), vị tướng có
công với dân, với nước thời Hai Bà Trưng.
Đền là một trong những di tích thuộc khu căn cứ cách mạng Quỳnh
Lưu thời kỳ chống Pháp, tại đây đã diễn ra nhiều sự kiện lịch sử cách mạng nổi
tiếng, nhiều đồng chí lãnh đạo xứ ủy Bắc Kỳ đã về hội họp và chỉ đạo phong trào
cách mạng trong vùng.
Trải qua các thời kỳ lịch sử và chịu sự tác động của thiên
nhiên, chiến tranh, con người, di tích đã bị xuống cấp đã được nhân dân địa
phương và chính quyền các cấp tu bổ nhiều
lần. Hiện di tích vẫn giữ được nét kiến trúc cổ, gồm hai tòa nhà bố trí theo lối
tiền nhất - hậu đinh, gồm 3 gian tiền bái, 3 gian trung đường, chính tẩm (hậu
cung).
Tiền bái có hệ khung nhà bằng gỗ lim tạo thành 3 gian, 2 đầu
xây tường thu hồi bít đốc, vì kèo theo lối chồng rường giá chiêng, hoa văn chạm
khắc tinh sảo. Trung đường gồm 3 gian kiến trúc theo lối chữ đinh, hàng trước cột
hiên bằng đá, 4 trụ cột có khắc câu đối bằng chữ nho. Tại đây còn lưu giữ được
nhiều hiện vật hiện vật quý như: 1 nhang án thời nguyễn, 1 cỗ long ngai và bài
vị thời Hậu Lê, 1 lư hương, 1 chuông đồng,...
Trong thời kỳ kháng chiến, di tích đã có những đóng góp quan
trọng: Năm 1935 tình hình trong nước và thế giới có nhiều chuyển biến; lúc này,
nhiều cán bộ đảng viên thuộc Ninh Bình lần lượt ra khỏi nhà tù trở về địa
phương để hoạt động.
Để tập hợp cán bộ, đảng viên vừa mới ở nhà tù ra trở về địa
phương hoạt động về để đẩy mạnh thêm một bước phong trào cách mạng trong tình
hình mới, các đồng chí cán bộ chủ chốt như: Lương Văn Thăng (Bí thư Chi bộ Đảng
Cộng sản Đông Dương đầu tiên của tỉnh Ninh Bình), Đinh Tất Miễn đã triệu tập hội
nghị tại đền Sầy. Hội nghị đã quyết định củng cố và phát triển phong trào cách
mạng, tổ chức các hội quần chúng, đấu tranh chống thuế… Đây là một mốc quan trọng
đánh dấu bước phát triển mới của phong trào cách mạng, mở đầu cho phong trào đấu
tranh công khai ở Ninh Bình.
Tại đây, Sơn Thành đã trở thành cơ sở vững vàng của các cơ
quan đảng từ huyện đến tỉnh, đến xứ uỷ, trong đó đền Sầy là nơi đi về, nơi hội
họp thường xuyên để chỉ đạo phong trào cách mạng trong vùng; mùa thu năm 1938,
đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lần thứ nhất được tổ chức, đồng chí
Đinh Tất Miễn (người làng Sầy, xã Sơn Thành) được bầu làm bí thư.
Đồng chí Đinh Tất Miễn là người thường xuyên lấy đền Sầy làm
nơi hoạt động cách mạng,…nhiều cuộc diễn thuyết, tập hợp nhân dân để bàn việc chuẩn
bị khởi nghĩa, góp phần đáng kể vào cách mạng tháng Tám năm 1945 giành thắng lợi.
Di tích còn là nơi sinh hoạt văn hóa tâm linh của nhân dân trong vùng, nơi diễn
ra các hoạt động lễ hội và trò chơi dân gian vào ngày 11, 12 tháng 2 âm lịch
hàng năm
Thể theo nguyện vọng dân và các cấp chính quyền huyện Nho
Quan, để ghi nhận giá trị của Di tích, Bộ trưởng Bộ Văn hóa và Thông tin đã ký
quyết định số 423-QĐ/BVHTT ngày 20/02/1997 xếp hạng di tích đền Sầy xã Sơn
Thành là di tích lịch sử, văn hóa cấp quốc gia.