Định Quốc công Nguyễn Bặc, khai quốc công thần triều Đinh ở thế kỷ thứ X, phò giúp vua Đinh Tiên Hoàng đế dẹp loạn 12 sứ quân, lập nên nhà nước Đại Cồ Việt, đồng thời được xem là một trong những ông tổ dòng họ Nguyễn ở Việt Nam. Nhà thờ và mộ Nguyễn Bặc ở xã Gia Phương, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình đã được xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia.
Chuyện kể lại rằng, sau khi dẹp loạn 12 sứ quân thắng lợi,
vua Đinh phân vân nên lấy vị hiệu cũ là Vạn Thắng Vương hay xưng đế. Chính Định
Quốc Công Nguyễn Bặc tâu rằng: “Ngày nay, nhà vua đã thống nhất bờ cõi, thu
giang sơn về một mối, dân chúng khắp nơi một lòng quy phục, có thực lực mạnh
hơn hẳn Lý Nam Đế và Ngô Vương Quyền trước đây, tại sao chỉ xưng vương mà không
xưng đế như các triều vua phương Bắc?
Nhà vua không lên ngôi Hoàng đế, dựng nền chính thống của nước
Đại Cồ Việt ta thì còn ai làm được việc đó? Trước đây, nhà Nam Hán đem hàng vạn
quân thủy bộ sang xâm lược nước ta đã bị Ngô Vương Quyền đánh cho tan tác ở cửa
sông Bạch Đằng. Nay nhà vua có binh hùng, tướng mạnh gấp nhiều lần thì sợ gì giặc
Bắc?”. Nghe lời khuyên của Nguyễn Bặc, các đại thần đồng thanh dâng vị hiệu,
Đinh Bộ Lĩnh quyết định xưng Hoàng đế, hiệu là Đại Thắng Minh Hoàng đế.
Khi tìm đất định đô, vua Đinh Bộ Lĩnh định lập đô ở Đại Hữu
quê nhà, nhưng Nguyễn Bặc khuyên vua Đinh, đất Đại Hữu không hiểm trở, nên lấy
Hoa Lư làm đô.
“Đại Việt sử ký toàn thư” cũng chép:“Khi ấy mười hai sứ quân
đều tự làm hùng trưởng cắt giữ đất đai... vua đánh dẹp được cả, mới tự xưng đế,
chọn chỗ đất phẳng ở Đàm Thôn, muốn dựng làm kinh đô, nhưng thế đất chập hẹp, lại
không có lợi về sự đặt hiểm, nên lại đóng đô ở Hoa Lư (nay là phủ Trường Yên)”.
Năm Tân Mùi (971), Nguyễn Bặc được vua Đinh gia phong là
Khai quốc công thần, Phụ quốc, Thừa tướng, Thái Tổ Định Quốc Công, tức là vị Tể
tướng đầu tiên trong lịch sử nước ta từ thế kỷ thứ X. Lúc này ông vừa 47 tuổi.
Là một vị Tể tướng, ông cũng rất chý ý tiến cử người hiền tài cho vua Đinh.
Khi vua Đinh định trao cho ông binh quyền, ông đã từ chối mà
tiến cử Lê Hoàn, một viên tướng trẻ đầy tài năng, hiện đang dưới quyền Nam Việt
Vương Đinh Liễn, lên làm Thập đạo Tướng quân (chức Tổng chỉ huy quân đội thời
Đinh).
Trong ngót 10 năm, với vị trí là người đứng đầu bộ máy hành
chính triều Đinh, Nguyễn Bặc đã giúp vua Đinh xây dựng hệ thống chính quyền
phong kiến tập trung, thống nhất, xóa bỏ cát cứ, xây thành đắp hào, làm cung điện,
đặt triều nghi.
Trung thành bảo vệ nhà Đinh
Đêm Trung Thu năm Kỷ Mão (979), Đinh Tiên Hoàng và con trai
là Nam Việt Vương Đinh Liễn bị Đỗ Thích sát hại. Sau đó, triều đình tôn Vệ
Vương Đinh Toàn lên làm vua kế vị.
Thập đạo Tướng quân Lê Hoàn xưng là Phó Vương, có tình riêng
với Thái hậu Dương Văn Nga. Đinh Điền và Nguyễn Bặc hội quân ở Ái Châu (Thanh
Hóa) kéo về Hoa Lư để đánh tướng Lê Hoàn. Sử cũ chép: “Bấy giờ Hoàn mới chỉnh đốn
binh sĩ, đánh nhau với Điền, Bặc ở Tây Đô (Thanh Hóa). Điền, Bặc thua chạy, lại
đem thủy quân ra đánh. Hoàn nhân gió phóng lửa đốt chiến thuyền, chém Điền tại
trận, bắt được Bặc đóng cũi đưa về kinh sư kể tội... bèn chém đầu để răn”. Theo
gia phả thì tướng Nguyễn Bặc bị hành quyết ngày 7/11/979 ở Ngô Khê Thượng, ngoại
thành Hoa Lư.
Kinh Thành Hoa Lư có 9 vòng thành, Ngô Kế Thượng nằm ở vòng
thành thứ 7, là nhiệm sở của ông khi còn sống. Đến nay ở đây vẫn còn đền thờ và
có tượng của ông. Khu bản doanh cũ của ông nay gọi là làng Hành Khiển.
Nguyễn Bặc bị hành quyết, con cháu ông bỏ làng chạy lên Kinh
Bắc (Bắc Ninh) và vào Tống Sơn (Thanh Hóa).
Tướng Nguyễn Bặc có hai con trai là Nguyễn Đê và Nguyễn Đạt.
Sau này Nguyễn Đê đã giúp Lý Công Uẩn lật đổ Lê Ngọa Triều lên ngôi vua, thay
nhà Tiền Lê đã mục nát. Nguyễn Trãi thuộc đời thứ 10, Nguyễn Hoàng, Chúa Nguyễn
đầu tiên mở mang và gây nên nghiệp lớn nhà Nguyễn sau này thuộc đời thứ 15 của
Nguyễn Bặc.
Có nhiều thơ văn, câu đối ca ngợi công đức của ông. Từ đường
họ Nguyễn ở thôn Vĩnh Ninh, xã Gia Phương (huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình) là
quê hương của ông, có bức đại tự rất đáng tự hào “Khởi nguyên đường” (khởi đầu
dòng họ Nguyễn). Đền thờ ông ở Ngô Hạ (Ninh Hòa, Hoa Lư, Ninh Bình) cũng có bức
đại tự “Trung quán nhật nguyệt” (trong sáng như mặt trời, mặt trăng).
Đền thờ họ Nguyễn ở Gia Miêu (Hà Trung, Thanh Hóa) có đôi
câu đối nổi tiếng, nói lên sự nối tiếp vẻ vang của dòng họ Nguyễn: “Duệ xuất
Gia Miêu vương tích hiển Khánh lưu Đại Hữu tướng môn quang”.Tạm dịch: Cửa tướng
phúc dày làng Đại Hữu/ Dòng Vương nối ở đất Gia Miêu.
Nhà thờ Nguyễn Bặc là nơi thờ cúng và tưởng niệm Nguyễn Bặc một công thần khai quốc nhà Đinh, có công giúp Đinh Tiên Hoàng đánh dẹp, chấm dứt loạn 12 sứ quân và thế kỷ 10 trong lịch sử Việt Nam. Do lập công lớn, ông được vua Đinh phong là Định Quốc công, vị trí như Tể tướng trong triều đình nàh Đinh. Theo các gia phổ họ Nguyễn và tài liệu “Lược sử họ Nguyễn Việt Nam”, ông được coi là bậc tiền thuỷ tổ họ Nguyễn ở Việt Nam. Ông được sử sách Trung Hoa liệt vào danh sách “Giao Châu thất hùng”, tức vị 7 anh hùng đất Giao Châu.
Toàn cảnh nhà thờ Nguyễn Bặc, xã Gia Phương, huyện Gia Viễn
Sử cũ cho biết Nguyễn Bặc quê ở động Hoa Lư, châu Đại Hoàng, cùng
quê với Đinh Bộ Lĩnh, nay là thôn Vĩnh Ninh, xã Gia Phương, huyện Gia
Viễn, tỉnh Ninh Bình. Nguyễn Bặc sinh vào khoảng năm 924. Lúc thiếu thời
Nguyễn Bặc cùng với Đinh Bộ Lĩnh tập trận cờ lau, rồi cùng tập hợp lực
lượng, lấy động Hoa Lư (nay thuộc xã Gia Hưng, huyện Gia Viễn) làm căn
cứ ban đầu. Về sau, vua Đinh Bộ Lĩnh hợp nhất với quân Trần Lãm ở Cửa Bố
(Thái Bình) và cùng Nguyễn Bặc, Đinh Điền tiến lên dẹp loạn 12 sứ quân,
thống nhất đất nước. Nguyễn Bặc đã có công lớn trong việc đánh tan những
sứ quân mạnh, nhất là hai sứ quân Nguyễn Siêu và Đỗ Cảnh Thạc, là hai
sứ quân mạnh nhất trong 12 sứ quân. Nguyễn Bặc là một vị tướng số một
của vua Đinh Tiên Hoàng. Ông không nhữg chỉ dùng quân sự để dẹp kẻ thù, mà
ông còn biết kết hợp cả chính trị và quân sự.
Mặt trước nhà thờ Nguyễn Bặc, xã Gia Phương, huyện Gia Viễn
Sau khi dẹp loạn 12 sứ quân, năm 968, vua Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi hoàng đế, đặt tên nước là Đại Cồ Việt, phong chức tước cho các quan văn võ. Nguyễn Bặc là người có công đầu, được phong chức Định Quốc Công, một chức quan đầu triều lúc đó. Ông có công lớn trong việc định đô ở Hoa Lư, xây dựng quân đội, xây dựng nhà nước phong kiến trung ương tập quyền đầu tiên ở nước ta. Tháng 10 năm 979 vua Đinh Tiên Hoàng và con trưởng là Đinh Liễn bị sát hại, triều đình suy tôn người con thứ ba là Đinh Toàn mới 6 tuổi lên ngôi hoàng đế. Lê Hoàn nhiếp chính tự xưng là phó vương. Nguyễn Bặc, Đinh Điền, Phạm Hạp ngờ Lê Hoàn không có lợi cho vua nhỏ và hai ông đã nặng tình nặng nghĩa với vua Đinh Tiên Hoàng, cùng là bạn bè anh em từ nhỏ “cờ lau tập trận” lại đồng chí đồng lý (người cùng chí hướng, cùng làng) với Đinh Tiên Hoàng, nên đã cùng nhau chia làm hai hướng thuỷ bộ tiến về kinh đô Hoa Lư, định giết Lê Hoàn. Nhưng Đinh Điền bị Lê Hoàn giết tại trận. Nguyễn Bặc bị bắt, đem về kinh đô Hoa Lư xử tội. Theo truyền thuyết, Nguyễn Bặc bị hành quyết ở ven bờ sông Chanh, tương truyền là nơi hành dinh của ông. Con cháu bí mật đưa xác ông về quê chôn cất ở gò Con Cá, cánh đồng chùa thôn Vĩnh Ninh (nay thuộc xã Gia Lập, huyện Gia Viễn). Việc ông chống lại Lê Hoàn là việc làm theo đạo lý ViệtNam, vì tình bạn hữu - nghĩa vua tôi với Đinh Tiên Hoàng. Trong sách Đại Việt sử ký toàn thư, nhà sử học Ngô Sĩ Liên đánh giá Nguyễn Bặc là “chết đúng chỗ”, là người có lòng trung quân, ái quốc đáng ngợi khen, đúng như câu đối ở nhà thờ ông:
Nhất phiến trung can huyền nhật nguyệt;
Thiên thu chính khí tác sơn hà.
Nghĩa là:
Một mảnh gương trung treo sáng như mặt trời mặt trăng
Nghìn thu chính khí còn rung động non sông.
Cấu trúc vì kèo tòa Tiền bái, di tích nhà thờ Nguyễn Bặc
Nhà thờ Nguyễn Bặc ở trên mảnh đất của tổ tiên để lại, rộng 3 sào 6 thước, quay hướng tây, nhìn ra sông Hoàng Long, uốn khúc như một con rồng khổng lồ. Theo lưu truyền của dòng họ Nguyễn, thì sau khi chôn cất Nguyễn Bặc xong, con cháu phát tán các nơi, mai danh ẩn tích đến thế kỷ XVII, ông Nguyễn Tài Nông từ Gia Miêu ngoại trang, huyện Tống Sơn (nay là làng Gia Miêu, xã Hà Long, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá) về xã Đại Hoàng, huyện Gia Viễn (nay là xã Gia Phương, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình) giữ mộ tổ Nguyễn Bặc và xây nhà thờ ông tổ của mình.
Về sau, con cháu thờ phụng ông Nguyễn Tài Nông và các ông tổ tiếp theo. Theo thượng lương của nhà thờ thì vào năm Khải Định thứ 7 (1927), dòng họ Nguyễn xây dựng lại nhà thờ khá bề thế, kiến trúc tiền nhất hậu đinh. Tiền đường 5 gian, bằng gỗ xoan và mít, vì kèo kiểu chồng rường hạ kẻ, nhưng đã bị thực dân Pháp đốt năm 1948. Trung đường 3 gian, hai vì kèo giữa theo kiểu kẻ truyền, hai vì kèo bên làm theo kiểu “thượng rường, hạ kẻ”. Hai gian bên Trung đường thờ ông Nguyễn Tài Nông và các ông tổ tiếp theo. Ở giữa Trung đường có bức hoành phi khắc ba chữ lớn: “Khởi nguyên đường” (có nghĩa là khởi đầu dòng họ Nguyễn). Gian chính giữa Hậu cung thờ ông tổ Nguyễn Bặc.
Ban thờ và tượng Nguyễn Bặc trong chính tẩm di tích nhà thờ Nguyễn Bặc.
Mộ Nguyễn Bặc ở cánh đồng Chùa, gò Con Cá. Xưa kia là mộ đất, gần đây được con cháu tu bổ lát đá khang trang. Mộ Nguyễn Bặc lấy dãy núi ở phía bắc làm hậu chẩm, lấy sông Hoàng Long ở phía nam làm tiền án. Con cháu còn lưu truyền hai câu đối.
Bắc hướng cao sơn trung vượng khí
Namphương lưu thuỷ tạo anh linh
Nghĩa là:
Phía bắc, dãy núi cao tụ nghĩa khí
Phía nam, dòng nước chảy hiện khí thiêng
Lăng mộ Định Quốc công Nguyễn Bặc, huyện Gia Viễn
Hiện nay Hội đồng dòng họ Nguyễn Bặc toàn quốc – BQL di tích Nhà thờ và mộ Định Quốc công Nguyễn Bặc cùng toàn thể bà con dòng tộc chịu trách nhiệm trực tiếp tổ chức lễ giỗ tổ họ Nguyễn vào ngày 14 -15/10 âm lịch hàng năm. Nhà thờ là nơi sinh hoạt mỗi khi có công việc của con cháu trong dòng họ. Đồng thời nhà thờ cũng là nơi thăm quan, học tập của cán bộ và nhân dân, nhất là các em học sinh về truyền thống chống giặc ngoại xâm. Di tích đã được Bộ Văn hoá Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia năm 1997.