Nguyễn Siêu (chữ Hán: 阮超; 924 - 967) hiệu Nguyễn Hữu Công (阮右公) là một sứ quân nổi dậy thời loạn 12 sứ quân trong lịch sử Việt Nam thế kỷ 10. Ông vốn là người gốc Trung Hoa, cát cứ ở Thanh Trì, Hà Nội để xây dựng lực lượng và trở thành một sứ quân mạnh.
Tháng 8 năm 967, Đinh Bộ Lĩnh thống lĩnh quân binh, cử Nguyễn
Bặc làm Tiên phong đánh dẹp thế lực cát cứ của ông, tiến thêm một bước trong
quá trình thống nhất, lập ra nhà nước Đại Cồ Việt trong lịch sử.
Nguồn gốc
Theo thần tích thì Nguyễn Siêu là em các sứ quân Nguyễn
Khoan và Nguyễn Thủ Tiệp. Về ba anh em sứ quân họ Nguyễn: Nguyễn Khoan, Nguyễn
Thủ Tiệp, Nguyễn Siêu, theo thần tích xã Văn Uyên và xã Đông Mỹ, Thanh Trì, Hà
Nội thì họ là cháu của Nguyễn Hãng, người Đà Dương tỉnh Phúc Kiến. Nguyễn Hãng
là danh tướng Bắc triều. Con ông là Nguyễn Nê vâng mệnh vua đem quân sang nước
Việt đòi họ Khúc triều cống. Nguyễn Nê dựng bản doanh ở Thành Quả lấy vợ Việt
sinh ra ba con trai vào các năm 906, 908 và 924.
Sau khi Nguyễn Nê chết ba anh em tranh nhau giữ binh quyền,
theo mẹ ở nước Việt gây nghiệp, người nào cũng nhiều của cải, nhiều quân quyền.
Họ trở thành thủ lĩnh các sứ quân cát cứ vào khoảng năm 945.
Nguyễn Siêu cùng Nguyễn Khoan, Nguyễn Thủ Tiệp trở thành 3 sứ
quân, cát cứ ở 3 hướng so với kinh đô Cổ Loa nhưng thường xuyên phối hợp, liên
hệ chặt chẽ với nhau, hợp sức mong muốn dẹp các sứ quân khác, đưa giang sơn về
một mối.
Sứ quân
Ngay từ thời Ngô vương trị vì, Nguyễn Siêu đã là một thủ
lĩnh ngầm cát cứ ở khu vực Đông Phù Liệt. Đến khi triều đình Cổ Loa không còn đủ
sức kiểm soát lãnh thổ, vua Ngô Xương Xí rời kinh đô về chiếm đóng ở Thanh Hóa,
Nguyễn Siêu đã xây dựng cho mình được lực lượng cát cứ hùng mạnh, chiếm giữ
vùng Tây Phù Liệt (Thanh Trì, Hà Nội ngày nay).
Nguyễn Siêu khi tách ra được thừa hưởng môn đệ trên 8.000
người, rồi phát triển lên tới trên 10 vạn, không ngừng thu phục anh hào, thế lực
ngày càng mạnh.
Ngày 6 tháng 6 năm Đinh Mão (tức 15 tháng 7 năm 967), Đinh Bộ
Lĩnh điều một đạo quân do tướng Nguyễn Bồ chỉ huy tiến đánh sứ quân Nguyễn
Siêu. Được tin Đinh Bộ Lĩnh sắp đánh, Nguyễn Siêu đem 1 vạn quân đóng ở Thanh
Đàm dùng Nguyễn Trí Khả làm tiên phong, Trần Côn làm tả dực, Đỗ Cư làm hữu dực,
Nguyễn Hiền làm tổng quản các đạo quân, ngày đêm luyện tập, đào hào đắp luỹ để
phòng bị. Trong trận giao tranh đầu tiên Đinh Bộ Lĩnh bị mất 4 tướng là Nguyễn
Bồ, Nguyễn Phục, Đinh Thiết và Cao Sơn cùng rất nhiều binh lính đều tử trận.
Ngày 15 tháng 7 năm Đinh Mão, Đinh Bộ Lĩnh thống lĩnh toàn
quân, cử Nguyễn Bặc làm Đại tướng tiên phong dẫn theo 10.000 quân, Lê Hoàn làm
tiếp ứng lĩnh 8.000 quân, Vương trực tiếp lĩnh 7.000 quân, truyền lệnh khi thấy
lửa cháy và tiếng pháo nổ thì đồng loạt tiến đánh.
Trước sức mạnh của quân Hoa Lư, Nguyễn Siêu chia một nửa
quân ở lại giữ thành, một nửa cùng sứ tướng vượt sông Hồng tìm viện binh của
các sứ tướng Lã Đường và Lý Khuê.
Gần tới bờ bắc, gặp gió lớn, thuyền bị đắm. Đinh Bộ Lĩnh biết
tin, bèn sai Nguyễn Đoàn cùng 10 võ sĩ lẻn vào nửa đêm phóng lửa đốt doanh trại,
quân Hoa Lư nghe pháo lệnh đồng loạt đánh. Quân Nguyễn Siêu tan. Nguyễn Siêu bỏ
chạy và tử trận. Theo thần phả thì trận đánh quyết định diễn ra vào ngày 15
tháng 7 năm đó (tức 23 tháng 8 năm 967).
Con trai Nguyễn Siêu là Nguyễn Triệu từ căn cứ Tiên Du của
Nguyễn Thủ Tiệp cùng các tùy tướng đem xác ông về chôn tại bãi Phù Sa thuộc quê
vợ của ông.
Căn cứ Tây Phù Liệt
Theo thần tích xã Đông Mỹ, Thanh Trì, Hà Nội thì sứ quân
Nguyễn Siêu đóng quân trên địa bàn Tây Phù Liệt, có 100.000 binh mã trong đó
8000 quân tinh nhuệ, địa bàn cát cứ có giới hạn trong khoảng từ 30 – 40 km.
Thời kỳ các sứ quân cát cứ từng vùng để tiến lên giành quyền
cai trị Tĩnh Hải quân, Nguyễn Siêu đã tiến hành xây dựng thành lũy kiên cố. Những
thần tích còn để lại cho biết tuyến lũy của Nguyễn Siêu có chiều 10 km kéo dài
từ làng Việt Yên qua Ngọc Hồi.
Lũy được cấu tạo bằng cọc rặng tre gai đã có sẵn, bao quanh
các thôn xóm, được trồng thành nhiều lớp, bên ngoài là cánh đồng nước hoặc đầm
lầy. Chân cọc rào tre được đắp đất dày và vững chắc. Mãi đến thời kỳ kháng chiến
chống Pháp, chống Mỹ thì rặng tre và lũy đất vẫn là những công trình kiến trúc
quân sự rất có giá trị.
Tại trung tâm căn cứ, nơi đặt đại bản doanh của Nguyễn Siêu
vùng gò đồi tập trung mà hiện nay còn thấy rải rác tại các cánh đồng làng Đông
Phù Liệt. Các mô Ma Cả, Ma Treo, Đường Chộ, Tam Thai… được đắp đất để cao thêm,
nối liền tạo thành bức tường thành bọc lấy cánh đồng Dinh là vết tích còn để lại.
Hiện nay người Việt chỉ có thể thấy một cách phác lại diện mạo
căn cứ này để hiểu thêm về nghệ thuật quân sự ở thế kỷ X của các bậc tiền nhân.
Tại khu vực Tây Phù Liệt ngày nay có rất nhiều di tích cổ thờ
sứ quân Nguyễn Siêu và các tướng nhà Đinh, minh chứng cho những cuộc chiến ác
liệt từng diễn ra tại căn cứ quân sự này thời loạn 12 sứ quân.
Đông Phù Liệt hay Nam Phù Liệt hiện nay gồm các xã: Đông Mỹ,
Vạn Phúc của huyện Thanh Trì và Duyên Thái của huyện Thường Tín còn Tây Phù Liệt
gồm các xã: Tứ Hiệp, Ngũ Hiệp và phần lớn xã Liên Ninh.
Nơi thờ phụng
Vùng đất Thanh Trì ngày nay còn 3 xã có đền và miếu thờ Nguyễn
Siêu, tập trung vào 4 làng liền kề nhau: làng Việt Yên và Đông Trạch (xã Ngũ Hiệp),
làng Đông Phù (xã Đông Mỹ) và làng Văn Uyên (xã Duyên Hà), riêng làng Đông Phù
thờ ông làm thành hoàng vì đây là trung tâm của căn cứ Tây Phù Liệt. Người dân
Đông Phù coi ông là người sáng lập làng.
Đình Đông Phù, thuộc làng Đông Phù, xã Đông Mỹ, huyện Thanh
Trì, Hà Nội. Đây là một ngôi đình cổ được cho là xây dựng từ thời Tiền Lê để thờ
vị sứ quân cai trị vùng Đông Mỹ.
Tương truyền, khi bị Đinh Tiên Hoàng đánh bại, thi thể của
Nguyễn Siêu trôi trên sông dạt vào địa phận tỉnh Hưng Yên, được nhân dân Đông
Phù đưa về chôn cất rồi lập đền thờ. Lễ hội đình Đông Phù được tổ chức trong
hai ngày, từ 06 đến 07 tháng Hai âm lịch hàng năm, thu hút rất nhiều nhân dân
và du khách thập phương tham dự.
Ngoài ra, đình Liễu Ngoại, xã Khánh Hà, huyện Thường Tín
cách xã Đông Phù 10 km cũng thờ Nguyễn Siêu làm thành hoàng làng.
Các di tích đền Hậu, đình Lạc Thủy ở xã Đông Kết và đình
Trung Hà ở xã An Vĩ đều thuộc huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên cũng là những nơi
thờ Nguyễn Siêu.
Tương truyền sau khi bị Đinh Bộ Lĩnh đánh cho thua trận,
Nguyễn Siêu chết, xác ông trôi về địa phận Khoái Châu, thi thể 3 tháng không
nát, nước da vẫn tươi tắn như lúc còn sống, nhân dân địa phương phong cho là
nhân thần nên đã lập đền thờ.
Đền Quan Trấn Bắc ở xã Đại Tập, Khoái Châu thờ Tướng quân
Nguyễn Siêu, Quan Trấn Bắc Tôn thần, một trong Thập nhị sứ quân thời Đinh Bộ
Lĩnh. Tương truyền, sau khi mất, thi hài Tướng quân Nguyễn Siêu trôi về vùng cửa
sông Bái Châu thuộc địa phận xã Đại Tập. Để tưởng nhớ công lao của ngài, người
dân trong vùng lập đền thờ và hằng năm tổ chức lễ hội vào ngày mồng 10 tháng
Giêng.
Đình Đông Phù, nơi thờ phụng thành hoàng Nguyễn Siêu
(924—967)
Theo truyền thuyết, đình làng Đông Phù (xã Đông Mỹ, huyện
Thanh Trì, TP. Hà Nội) có từ thời Trần, về sau được đại trùng tu năm
Cảnh Hưng thứ 6 (1745) và giữ nguyên dáng vẻ cho đến ngày nay.
Cổng đình Đông Phù. Photo NCCong ©2018
Đại đình Đông Phù. Photo NCCong ©2018
Trong đình Đông Phù. Photo NCCong ©2018
Kiến trúc
Cũng như chùa Hưng Long ở ngay phía sau lưng, đình Đông
Phù quay hơi chếch về hướng tây-nam, nhìn qua sân và ngõ ra cổng đình
gồm 4 trụ biểu. Trong khuôn viên khá rộng trồng nhiều cổ thụ, xung
quanh có xây tường bao. Trước mặt bây giờ là con đường làng đi ngang
qua cổng đình và sân vận động nằm đối diện ở bên kia đường. Mặt
bằng xây dựng của đình có hình chữ "Công" (工). Tiền
đình gồm 5 gian, hai bên có ống muống sâu 3 gian nối với hậu cung rộng
3 gian.
Di sản văn hoá
Đình Đông Phù đã trải qua 4 thế kỷ với nhiều lần
xuống cấp rồi được trùng tu. Năm 2018 dân làng đang cho xây lại nhà
hữu vu và cổng đình. Trong đình còn giữ được 22 sắc phong và nhiều
hiện vật quý mang niên đại từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX. Cổ nhất
là một đạo sắc phong ghi ngày 2 tháng 10 năm Khánh Đức 慶 德 thứ
2 dưới đời vua Lê Thần Tông tức 1650 dương lịch. Lễ hội đình hàng năm được
tổ chức vào ngày rằm tháng Ba âm lịch để tưởng nhớ công lao của
thành hoàng Nguyễn Siêu, trong đó có lễ rước kiệu lên chùa rồi quay
lại đình và hội làng với nhiều trò chơi dân gian.
Đông Phù còn là một trong những nơi ghi dấu ấn của vua Lê
Lợi cũng như của hoàng đế Quang Trung. Năm 1427 Bình định vương Lê Lợi
trước khi bao vây thành Đông Quan (Hà Nội ngày nay) đã họp tướng sĩ tại đình
Đông Phù, phát lệnh chặn đánh viện binh quân Minh ở Xương Giang và tiến quân
vào Bồ Đề (Gia Lâm).
Một tháp canh bảo vệ đồn Ngọc Hồi của quân Thanh trên cánh
đồng Ma Vang (Đông Mỹ) đã bị đại quân Tây Sơn san phẳng trên đường vào giải
phóng Thăng Long năm 1789.
Ngày 9-1-1990 Bộ Văn hoá và Thông tin đã xếp hạng đình
và chùa làng Đông Phù là di tích lịch sử - văn hóa quốc gia.