Vua Ngô Quyền (897 – 944), còn được xưng tụng là Tiền Ngô Vương (前吳王), là vị vua đầu tiên của nhà Ngô trong lịch sử Việt Nam, vị “vua đứng đầu các vua“,vị Tổ Trung hưng của Việt Nam.
Mùa xuân năm 939, Ngô Quyền xưng vương, đóng kinh đô ở Cổ
Loa (nay thuộc xã Cổ Loa, huyện Đông Anh, Hà Nội), “đặt trăm quan, chế định triều
nghi phẩm phục”, mở đầu kỷ nguyên độc lập và phát triển đất nước trên nhiều
phương diện. Ông ở ngôi 5 năm, đến năm 944 đã băng hà.
Ngày nay, đền thờ Ngô Quyền được lập ở một số địa phương nơi
gắn bó với cuộc đời và sự nghiệp của Ngô Quyền. Ở Hải Phòng, nơi Ngô Quyền dùng
làm chiến trận đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng cũng đã có trên 20
ngôi đền, đình, từ và khu di tích được xây dựng nhằm tưởng nhớ công lao to lớn
của Ông. Một trong số những di tích tiêu biểu đó là:
Di tích Từ Lương Xâm:
Lương Xâm là tên một xã thuộc huyện An Dương, phủ Kinh Môn,
Trấn Hải Dương xưa (nay là phường Nam Hải, quận Hải An, Hải Phòng). Từ Lương
Xâm toạ lạc trên khu đất rộng, cao ráo, có nhiều cây cổ thụ. Phía trước Từ có một
sân rộng là nơi diễn ra các hoạt động lễ hội của di tích và bên cạnh là một hồ
rộng tạo nên thế phong thuỷ của di tích.
Từ có kiến trúc chính quay về hướng Đông với bố cục kiểu nội
công, ngoại quốc; được dựng trên khu đất cao, có nhiều cây cổ thụ, trên nền bản
doanh và kho lương của Ngô Quyền chống giặc Nam Hán xưa. Đây là nơi Ngô Quyền
nhiều lần trực tiếp chỉ huy tác chiến.
Từ Lương Xâm là một trong “Tứ linh từ” linh thiêng của huyện
cổ An Dương và nay là một trong 3 “linh từ” linh thiêng của quận Hải An (Từ
Lương Xâm, Phủ Thượng Đoạn, Đền Phú Xá).
Nhìn toàn cảnh, ngôi Từ được bố cục theo kiểu “Nội công, ngoại
quốc”, liên hoàn khép kín, nối giữa nhà Tiền Bái là hàng gạch dẫn xuống thẳng hậu
cung với hai bên là 2 nhà giải vũ. Ở giữa vòng khép kín đó là nhà thiêu hương,
đặt cỗ kiệu bát cống với nghệ thuật chạm nổi, chạm thủng, chạm bong kênh trên
các thanh hàm rồng, hàm thọ, cuốn thư, các mô típ rồng có chạm khắc đao, mác,
ngoài ra còn đặt các đồ nghi trượng, long, đao, phủ việt (búa) được sơn son thếp
vàng rất đẹp và bắt mắt.
Từ Lương Xâm được công nhận là di tích lịch sử văn hoá cấp
quốc gia năm 1986, chứa đựng nhiều nội dung liên quan đến chiến thắng Bạch Đằng
lần thứ nhất năm 938 của quân và dân ta dưới sự lãnh đạo của Ngô Quyền.
Trong số 4 nơi thờ Ngô Quyền tại địa bàn quận Hải An thì từ
Lương Xâm được coi là “từ cả” bởi cách đây 1.075 năm về trước nơi đây chính là
đại bản doanh của Ngô Quyền đại phá quân Nam Hán.
Từ xa xưa, Từ Lương Xâm trở thành trung tâm sinh hoạt văn
hoá, tín ngưỡng của dân làng, được mở hội hàng năm vào đúng ngày 16 tháng Giêng
âm lịch (ngày hoá của ngô Quyền), các nơi khác sang ngày 17 tháng Giêng mới tiến
hành lễ hội.
Khác với lễ hội của các làng xã khác, lễ hội Từ Lương Xâm được
tiến hành với sự tham gia của hầu hết các làng xã trong vùng. Vào ngày chính hội,
người dân trong các thôn làng lại góp sức làm lễ dâng lên Đức Vương Ngô Quyền,
bày tỏ lòng thành kính tới công lao của Ngài đối với vùng đất này.
Sau khi đã tiến hành nghi thức quốc lễ tại từ Lương Xâm thì
đến lượt các tổng, các làng xã xung quanh tổ chức tế lễ Ngô Vương. Về cấp độ,
việc tế lễ Ngô Quyền do 3 cấp tiến hành: của nhà nước (thời Ngô, Đinh, Tiền Lê,
Lý, Trần) sau này do hàng huyện đảm nhiệm, của hàng tổng và của dân làng sở tại.
Trong lễ hội từ Lương Xâm, cuộc hành lễ của hàng chục làng
xã rước kiệu từ đình làng mình tới chầu đã tạo nên sự xúc động tâm linh hướng về
cội nguồn mạnh mẽ. Tất cả các kiệu đều đặt ở khu đất rộng trước cửa Linh từ
Lương Xâm để chấm giải. Kiệu nào nhất thì lần sau được vinh dự thay mặt cả đoàn
kiệu đứng dâng lễ Thánh Vương trước long sàng.
Nghi thức tế đám Ngô Vương ở từ Lương Xâm khá đặc biệt: lễ
phẩm phải có một bò, một lợn, một dê mổ tế sống (cỗ thái lao), tế xong đem số
thịt đó làm cỗ ăn tại đền và chia cho dân đinh. Vào những năm “phong đăng hòa cốc”
ở từ Lương Xâm còn có lệ hợp tế hàng huyện, hợp tế hàng tổng.
Di tích đình Hàng Kênh:
Đình Hàng Kênh hay còn gọi là đình Nhân Thọ, nằm trên phố
Nguyễn Công Trứ (Thành phố Hải Phòng) thờ anh hùng dân tộc Ngô Quyền. Tương
truyền trước khi đánh quân Nam Hán, Ngô Quyền đã đóng quân, chiêu binh tập mã ở
An Dương (nay thuộc Hải Phòng). Dân nhiều làng ở đây đã làm quân cận vệ và chuẩn
bị những cọc gỗ đóng xuống lòng sông Bạch Đằng để chống quân xâm lược.
Theo các nguồn tài liệu nghiên cứu, đình Hàng Kênh được khởi
dựng vào đầu thế kỷ 18, đời vua Lê Dụ Tông. Trải qua hàng trăm năm biến động,
đình được tu bổ, dựng lại vào năm Tân Hợi đời Tự Đức (1851).
Đình có kiến trúc hình chữ công bao gồm: Đại đình, tòa ống
muống và hậu cung. Ngoài kiến trúc chính còn có hai tòa giải vũ, hồ bán nguyệt. Tòa
đại đình là phần kiến trúc trọng yếu nhất của ngôi đình. Khung tòa nhà làm theo
kiểu vì biến thể “Giá chiêng chồng rường con nhị” với 6 hàng cột.
Toàn bộ khung chịu lực có 7 bộ vì với 42 cây cột cao hơn 5m,
chu vi cột cái gần 2m, được kê trên những chân tảng đá xanh chạm nổi một bông
sen xòe cánh, tạo cảm giác như kiến trúc được nở ra trong một đầm sen. Mái đình
lợp ngói mũi hài, với 4 đầu đao cong vút như nâng bổng các tàu mái nặng nề bay
lên.
Trong lòng đình, ngoại trừ các thân cột và hệ thống hoành,
rui còn tất cả thành phần kiến trúc của đình đều chạm khắc trang trí hàng chục
loại hoa lá, chim muông, mỗi con một kích cỡ, một phong thái, dáng vẻ khác
nhau.
Ngoài vẻ đẹp về kiến trúc, đình Hàng Kênh còn có giá trị về
điêu khắc. Trong đình có hơn 100 mảng chạm khắc hình tượng rồng. Hai Nhà nghiên
cứu Chu Quang Trứ và Trịnh Cao Tưởng đã thống kê được trên 100 mảng điêu khắc
này có hình tượng 400 con rồng, mỗi con một vẻ, mỗi tư thế khác nhau và được tạc
theo từng ổ, rồng mẹ rồng con quấn quýt bên nhau giữa cỏ cây hoa lá.
Đi trong đình, người xem như lạc vào thế giới của rồng vô
cùng sống động, nhộn nhịp, huyền ảo. Những mảng chạm khắc rồng, mây, hoa lá
cách điệu nổi trên mặt các tấm ván, dưới chân các chấn song như thách thức cùng
thời gian.
Gian chính của đình có cửa võng sơn son thiếp vàng được chạm
thủng cân xứng. Cửa võng này giống như một bức tranh điêu khắc sống động có
hình ảnh lưỡng long chầu nguyệt, đôi chim phượng xoè cánh, ngựa qua sông, rùa sải
chân cùng hồ nước hoa sen. Hiếm có nơi nào các nghệ nhân lại dùng lối “bong
hình” hay “chạm lộng” để chạm khắc như nơi đây.
Đình Hàng Kênh không chỉ có giá trị lớn về nghệ thuật kiến
trúc, điêu khắc mà còn bảo lưu được kiến trúc ván sàn lòng thuyền độc đáo, hiếm
có, đưa đình Hàng Kênh trở thành một di sản văn hóa đặc sắc trong các ngôi đình
Việt Nam.
Trong đình lưu giữ nhiều hiện vật quý như văn bia ghi tên tuổi
những người của làng đỗ đạt từ 1460 đến 1693, nhiều đồ tế khí như chuông, đỉnh
đồng, khánh đồng, hạc, lục bình, bát hương bằng sứ, tượng, các hoành phi, câu đối,
cửa võng, kiệu bát cống, voi ngựa bằng gỗ được chạm trổ tinh vi, sơn son thiếp
vàng lộng lẫy với các hoa văn phong phú, sinh động.
Với những giá trị đặc sắc, hiếm có, đình Hàng Kênh được Nhà
nước xếp hạng Di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia vào năm 1962.
Hàng năm vào trung tuần tháng hai âm lịch, đình mở hội, cúng
tế, để tưởng nhớ Ngô Quyền, có hát ả đào, hát chèo, múa hạc gỗ và nhiều trò dân
gian khác.
Di tích đền thờ Ngô Quyền ở Tràng Kênh:
Nằm cách trung tâm thành phố 20 km về phía Đông Bắc, cụm
công trình đền thờ Ngô Quyền, đền Lê Đại Hành, đền Trần Hưng Đạo thuộc xã Tràng
Kênh, thị trấn Minh Đức, huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng.
Cụm công trình tọa lạc trên một địa thế đẹp, một bên là quần
thể núi đá Tràng Kênh, một bên là nơi sông Bạch Đằng hợp lưu với nhiều con sông
lớn, trong thế tựa lưng vào núi, mặt hướng về phía Tây Nam tạo nên sự kết hợp
hài hòa giữa núi, sông, cảnh quan thiên nhiên và làng quê trù phú.
Danh nhân văn hóa Nguyễn Trãi khi chiêm ngưỡng cảnh sắc nơi
đây đã không khỏi thốt lên: “nơi mà các sông giao lưu, sóng nước liền trời, cây
cói che bờ, thật là nơi hiểm yếu ở biên cảnh”.
Trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc, Tràng
Kênh – Bạch Đằng là một địa danh trọng yếu trong tuyến phòng ngự bảo vệ cửa
Đông Tổ quốc. Theo các nguồn sử liệu, mảnh đất này xưa vốn là xã Tràng Kênh, tổng
Dưỡng Động, huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Yên.
Vào năm 938 với chiến thắng của Ngô Quyền đã vùi chôn tham vọng
xâm lăng của đại quân Nam Hán. Năm 981, vua Lê Đại Hành đã chiến thắng giặc Tống
trên sông Bạch Đằng. Năm 1288, nơi đây Quốc công tiết chế Trần Hưng Đạo đã đánh
tan quân Nguyên Mông.
Ngôi đền được thiết kế theo hình chữ Đinh, chia thành các
khu, tất cả mọi thứ đều được chạm khắc, sơn son, thiếp vàng tinh xảo nên không
gian mang phần trang nghiêm, lộng lẫy.
Di tích Bạch Đằng Giang:
Khu di tích thuộc xã Tràng Kênh, thị trấn Minh Đức, huyện Thủy
Nguyên, Hải Phòng. Nằm ngay cửa sông Bạch Đằng, cách trung tâm thành phố Hải
Phòng khoảng 20 km. Đây là quần thể hội tụ những dấu ấn lịch sử, văn hóa, tín
ngưỡng lớn bậc nhất Hải Phòng, một trong những điểm đến hấp dẫn du khách thập
phương.
Cụm di tích Lịch sử Bạch Đằng Giang
Bãi cọc tại di tích Bạch Đằng Giang
Vùng cửa sông Bạch Đằng là một địa danh đặc biệt vì gắn liền
với ba trận thủy chiến, biểu tượng cho tinh thần anh dũng chống lại những thế lực
ngoại xâm lớn mạnh gấp bội phần của dân tộc Việt Nam.
Từ năm 2008, thành phố Hải Phòng đã tái dựng một quần thể di
tích lịch sử tại Tràng Kênh để biểu đạt những giá trị to lớn của ba chiến công
vĩ đại trên sông Bạch Đằng.
Nổi bật nhất trong khu di tích lịch sử Bạch Đằng Giang là quần
thể ba ngôi đền gắn với tên tuổi ba nhà cầm quân lẫy lừng của dân tộc: Đức
Vương Ngô Quyền Vua Lê Đại Hành, Quốc Công Tiết chế Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn.
Cả ba ngôi đền đều được kiến trúc theo dáng cổ, với sự kết hợp
kỳ công giữa gỗ và đá tự nhiên, tọa lạc dưới những vòm cây đang tỏa bóng, dọc
theo một triền núi ven sông, tạo thành vùng sinh thái thơ mộng, trên bến dưới
thuyền, sơn thủy hữu tình gắn quyện.
Ngoài bến sông Bạch Đằng, có thêm một con đường rộng thênh
thang, dẫn lối tới những cầu đá nổi, được chạm khắc tinh xảo, tôn thêm vẻ hùng
tráng của ba pho tượng các bậc danh tướng, sừng sững ngự trên mặt sông.
Phía dưới là bãi cọc, chứng tích lịch sử về những chiến thắng
vang dội của một thuở non sông. Khu vực này đang được dự kiến đầu tư mở rộng trở
thành công viên Chiến thắng Bạch Đằng, tương lai là địa điểm tổ chức lễ hội
truyền thống kỷ niệm chiến thắng Bạch Đằng lịch sử. Khu di tích này cũng đang
được thành phố Hải Phòng đề cử để nhà nước công nhận là Di tích quốc gia đặc
biệt.
Bùi Thị Thu Phương