Vào những thế kỷ đầu của công nguyên, Kim Động thuộc quận Giao Chỉ, thời nhà Đinh có tên là Đằng Châu, thời nhà Trần có tên là Kim Động. Trên mảnh đất Kim Đông hiện có nhiều di tích lịch sử, thờ phụng những anh hùng vì dân vì nước.
1. Lịch sử hình thành
Vào những thế kỷ đầu của công nguyên, Kim Động thuộc quận
Giao Chỉ, thời nhà Đinh có tên là Đằng Châu, thời nhà Trần có tên là Kim Động
cho đến nay.
Ngày 24 tháng 2 năm 1979, theo Quyết định số 70/CP của Hội đồng
Chính phủ, huyện Kim Động sáp nhập với huyện Ân Thi thành huyện Kim Thi, thuộc
tỉnh Hải Hưng. Sau 17 năm hợp nhất, đến tháng 4 năm 1996 thực hiện Nghị định số
05/NĐ-CP ngày 27/01/1996 của Thủ tướng Chính phủ, huyện Kim Thi tách ra thành
hai huyện Kim Động và Ân Thi như trước.
Kim Động nằm ở trung tâm đồng bằng Bắc Bộ, được phù sa sông
Hồng bồi đắp. Trải qua hàng vạn năm, bãi bồi lấn dần ra biển, những người dân
Việt cổ men theo những dòng sông, săn bắt thủy sản, phát triển nghề trồng lúa
nước để sinh sống.
Cùng với sự phát triển kinh tế nông nghiệp, những làng mạc định
cư đầu tiên của người Kim Động được dựng lên ven sông Hồng. Trong cuộc đấu
tranh với thiên nhiên và trong lao động để tồn tại, những người dân với sức lao
động cần cù, chịu khó đã đoàn kết, giúp đỡ nhau khai phá những bãi đồng lầy, dựng
làng, lập ấp, gieo lúa, trồng màu để sinh sống.
Nhiều làng mạc trong huyện hiện nay vẫn còn chữ Xá (nghĩa là
cộng đồng cư dân có chung nguồn gốc): Động Xá, Vĩnh Xá, Vũ Xá, Mai Xá,… Đến
nay, nhiều nơi trong huyện vẫn còn tên cổ của làng để ghi công lao những người
đầu tiên có công khai lập nên, hoặc ghi nhớ những sự tích của làng, như: làng Nở
(Duyên Yên), làng Tè (Tạ Xá), làng Phận (Dưỡng Phú)…
Nhân dân Kim Động mang trong mình dòng máu Lạc Rồng, có truyền
thống cần cù trong lao động, dũng cảm trong đấu tranh với thiên nhiên, không chịu
khuất phục trước bất cứ kẻ thù nào, đã cùng đồng bào cả nước đánh đuổi hết thù
trong giặc ngoài; ngày nay nhân dân Kim Động đang hăng say phấn đấu xây dựng một
Kim Động giàu mạnh, phồn thịnh, huyện tiêu biểu hàng đầu của tỉnh.
Đình Ngọc Thanh - Kim Động - Hưng Yên
2. Những di tích lịch sử huyện Kim Động
1. ĐỀN ĐÀO XÁ
Thôn Đào Xá cùng với hai thôn Ngô Xá và Vĩnh Hậu hợp thành
xã Vĩnh Xá. Đây là một thôn lớn có cả đình, chùa, miếu, đền do cư dân theo đạo
Phật và một nhà thờ của đạo theo Thiên
chúa giáo.
Đền Đào Xá có tên xưa là đền Sướng Thiện, là Tam Giáo Động,
được xây dựng ở đầu thôn trên một khu đất cao, thoáng mát từ thập niên đầu thế
kỷ XIX. Theo các cụ cao tuổi nhất ở đây kể lại, khoảng năm 1896, cụ Từ trông
coi đèn nhang đã sang đền Bạch Mã thuộc huyện Phú Xuyên tỉnh Hà Đông cũ xin tên
hèm để thờ, đặt tên cho đền là Sướng Thiện. Từ đó nhân dân trong vùng tìm đến
đây lễ bái cầu phúc, hướng thiện và xin thuốc nam về chữa bệnh.
Đền được xây dựng theo kiến trúc điêu khắc thời Nguyễn muộn
có vòm cuốn bê tông và hình khối nội công ngoại quốc. Đến năm 1929 , nhân dân lại
đóng góp công sức và tiền của tu tạo lại đền cho bề thế, khang trang hơn. Khi hội
Tam Thánh ra đời, đền thờ Phật – Tiên – Thánh, 3 vị giáo tổ và thờ vọng những vị
anh hùng dân tộc đã có công cầm quân chống ngoại xâm như Trần Hưng Đạo, Phạm
Ngũ Lão.
Tên đền Sướng Thiện hay Tam Giác Động nói lên ý tưởng và tâm
nguyện về điều thiện, hành động theo điều thiện. Sau này, tên đền được gọi theo
tên thôn: Đền Đào Xá. Đào chính là tên một dòng họ có người đến khai phá vùng đất
này sớm nhất và cũng là họ phát triển đông đúc nhất thời ấy.
Thời kỳ 1939 – 1945 Đảng ta vận động đấu tranh cách mạng
trong sự khủng bố, lùng sục gắt gao của chính quyền thực dân đền Đào Xá là một
trong những cơ sở cất giấu tài liệu của Đảng bộ Hưng Yên. Trong cuộc Tổng khởi
nghĩa tháng Tám năm 1945 nhiều cuộc mít tinh hội họp lớn của xã đã được tổ chức
tại đền.
Khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp diễn ra ác liệt,
vùng đất này từng có thời gian bị địch chiếm đóng, đền Đào Xá lại là nơi cán bộ
ta đặt chân an toàn để phát triển phong trào đóng vai người đến đền cúng lễ,
khi lại là người lên đền xin lá thuốc về chữa bệnh cho người nhà.
Trong đền có hầm bí mật nuôi giấu cán bộ. Hòn Non bộ đắp nổi
giữa hồ nước trong khuôn viên với mục đích cất giấu tài liệu nên được tạo dáng nhiều hang lạch ăn sâu vào
giữa khối đá giả sơn trông lạ mắt mà kín đáo.
Bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, Bộ Tư lệnh Quân khu III
đã về đây mở Hội nghị Quân chính bàn việc chống chiến tranh phá hoại của địch
và các chủ trương biện pháp chi viện cho chiến trường miền Nam. Tiếp đó, Bộ Y tế lại chọn đền Đào Xá làm địa điểm sơ tán cho
xí nghiệp Dược phẩm.
Đền Đào Xá còn lưu giữ được nhiều hiện vật quý, ngoài Hòn
Non bộ xây đắp công phu, phải kể đến 24 pho tượng mỗi pho đều có vẻ hấp dẫn
riêng. Nhiều đồ tế tự có giá trị điêu khắc như pho kiệu Ngọc Bộ, ngai, cửa
võng, câu đối cùng với nhiều cổ vật quý hiếm nh lọ độc bình, lọ hoa, choé, bát
hương…
Đền Đào Xá được Nhà nước công nhận Di tích lịch sử và nghệ
thuật cấp quốc gia theo Quyết định số 1570 ngày 5/9/1989 của Bộ Văn hoá và
Thông tin.
2. ĐỀN VÀ LĂNG VŨ TIÊN CÔNG
Di tích được đặt theo tên của vị thần được nhân dân tôn thờ
là Vũ Tiên Công. Cả đền và lăng đều được xây dựng ở thôn Tiên Cầu, xã Hiệp Cường
ngay phía đông quốc lộ 39A rất thuận lợi cho việc tổ chức lễ hội và tham quan,
cúng lễ của khách thập phương.
Theo văn bia ghi thần tích hiện còn lưu giữ tại đây, khu
lăng và đền tưởng niệm ngài Vũ Đình Trác
tức Vũ Tiên Công là một quan đại thần dựới triều Lê. Truyền thuyết ở đây kể rằng
các bậc sinh thành ra Vũ Đình Trác nguyên là người làng Mộ Trạch huyện Bình
Giang tỉnh Hải Dương – nơi đã sinh ra 36 Tiến sĩ, trong đó, số người đỗ Tiến sĩ
thuộc dòng họ Vũ nhiều hơn cả.
Do những biến động về kinh tế chính trị và xã hội, nhiều người
dân ở Mộ Trạch đã phải di tán tới nhiều nơi, trong đó có một gia đình họ Vũ
Đình tới định cư ở xã Tiên Cầu. Tại đây ông bà đã sinh ra một người con trai đặt
tên là Vũ Đình Trác.
Thần tích ghi nhận ông là ngựời thông minh ham học, đặc biệt là võ nghệ rất siêu việt được bạn bè
và nhân dân địa phương kính nể. Lớn lên, Vũ Đình Trác sớm trở thành một nhà cầm
quân có uy tín thời Hậu Lê. Với những chiến tích trong việc bảo vệ đất nước, bảo
vệ triều chính, Vũ Đình Trác sớm trở thành một đại thần của triều đình.
Năm 1740, niên hiệu Cảnh Hưng 35 (Cảnh Hưng tam thập ngũ
niên tuế thứ) ông được phong Đặc Tiến Phụ Quốc Thượng Tướng Quân . Sau đó 4 năm
(tức năm 1744), do lập được nhiều chiến công hiển hách, ông được triều đình ra
sắc chỉ, chuẩn bị vàng bạc cho nhân dân địa phương xây dựng lăng và đền tạ ơn
ông. Có thể nói đây là một trong những trường hợp khá độc đáo.
Công trình được xây dựng trong thời gian người được tôn vinh
còn sống và đang tại chức. Chính điều ấy minh chứng cho sự trung thành hết mực
của ông với đất nước và càng cổ vũ ông hơn nữa trong công việc để xứng đáng với
sự quan tâm của triều đình.
Năm 1786, Vũ Đình Trác lâm bệnh tạ thế. Theo nguyện vọng của
địa phương, triều đình đã cho đưa thi hài ông về chôn cất tại Tiên Cầu. Phần mộ
của ông được xây lăng cách đền chùng
300m. Trước công lao của ông, nhân dân địa phương đã gọi ông bằng cái tên kính
trọng “ Vũ Tiên Công” và từ đó khu lăng, đền cũng được gọi là lăng đền Vũ Tiên
Công. Công lao của Vũ Tiên Công và sự nghiệp của ông được nhân dân địa phương
luôn luôn ghi tạc và họ đã tôn ông là Thành Hoàng của xã.
Cuốn thần tích cùng với tiểu sử của ông được lưu truyền mãi
trong lòng dân từ thế hệ này sang thế hệ khác. Hàng năm cứ vào ngày 1/3 âm lịch,
địa phương tổ chức lễ hội để tưởng niệm Vũ Tiên Công.
Chính với niềm tự hào sâu sắc về tấm gương Đức Tiên Công mà
mảnh đất Tiên Cầu đã phát huy được vai trò của mình trong quá trình lịch sử. Thời
kỳ Tiền khởi nghĩa, nhiều cán bộ của Đảng đã về đây hoạt động và xây dựng cơ sở
cách mạng. Nhân dân Tiên Cầu không sợ gian khó nguy hiểm, tạo điều kiện tốt nhất
cho cán bộ đến hoạt động an toàn. Được sự đùm bọc cho chở của nhân dân, Đảng ta
đã xây dựng được cơ sở vững mạnh ở Tiên Cầu.
Trong cuộc Tổng khởi
nghĩa tháng Tám năm 1945 lực lượng vũ trang và nhân dân Tiên Cầu đã tập trung ở
đền, tiến vào giành chính quyền ở huyện lỵ Kim Động và tỉnh lỵ Hưng Yên. Sau
khi đã đập tan chính quyền cũ, nhân dân Tiên Cầu đã nhiều lần tổ chức mít tinh ở
khu đền để biểu dương lực lượng quần chúng, chào mừng Chính phủ cách mạng lâm
thời.
Năm 1946 thực dân Pháp tráo trở xâm lược nước ta lần thứ 2.
Dưới sự lãnh đạo của tổ chức Đảng, đội tự vệ Tiên Cầu được nhanh chóng thành lập.
Nhân dân đã cùng đội tự vệ đào hào, đắp ụ xẻ đường cản bước tiến của giặc.
Trong 9 năm kháng chiến, Tiên Cầu luôn là điểm nóng, du kích địa phương đã phối
hợp với bộ đội đánh nhiều trận ác liệt trên đường 39A, khu lăng và đền được chọn
là nơi mai phục của quân ta.
Sau các cuộc chiến đấu với thực dân Pháp ở các vùng phụ cận
như Dốc Lã, Cầu Ngàng bộ đội ta lại rút về khu đền. Có thể nói trong kháng chiến
trường kỳ, khu vực lăng và đền Vũ Tiên Công luôn được chọn làm vị trí ém quân
và xuất kích của quân ta có độ đảm bảo bí mật cao nhất.
Là nơi diễn ra nhiều trận đụng độ quyết liệt với địch nên có
thể nói Tiên Cầu là một trong số điểm hứng chịu nhiều bom đạn nhất trong huyện.
Khu đền và lăng Vũ Tiên Công bị địch bắn phá ác liệt nhiều lần.
Đặc biệt trong trận càn quét năm 1952, chúng đã cướp đi 2
pho tượng đá và một số đồ tế tự quý. Dù vậy, đây vẫn còn giữ được nhiều hiện vật
cổ độc đáo như một ban thờ đá dài 1,6m rộng 0,9m tạo dáng theo hình sập bằng
chân quỳ da cá, 01 lư hương bằng đá cao 0,3m, đường kính rộng 0,25m, hai sườn lư được đục đẽo gọt rũa tạo hình đôi đầu ghê
chầu vọng, một bia cũng bằng đá khối cao 1,8m rộng 0,72m dựng năm 1774 ghi công
đức đóng góp tu sửa di tích.
Khu lăng và đền còn được một quần thể tượng đá tạo nên những
nét nhấn thu hút sự chú mục của khách thập phương. Đó là sáu vệ binh tạo từ đá
đứng uy nghiêm trên bệ cao 1,86m; hai voi dáng to khoẻ mà đĩnh đạc thư thái;
hai ngựa chiến với yên cương trong tư thế trận tiền; hai chó đá ngồi như đang
quan sát canh chừng kẻ địch.
Đền và Lăng Vũ Tiên Công đã được nhà nước xếp hạng Di tích lịch
sử và nghệ thuật cấp quốc gia theo Quyết định số 97 ngày 21/11/1992 của Bộ Văn
hoá – Thông tin.
3. CHÙA PHƯƠNG TÒNG
Chùa có tên chữ là Tam Cương tự, nhưng thường được gọi là
chùa Phương Tòng hoặc gọi nôm la là chùa Phương, thuộc xã Hùng An.
Theo lời các vị cao tuổi kể lại thì xưa kia, khu đất này rất
trũng nhưng lại nổi lên 3 gờ đất cao. Cho đó là điểm lành, một sự mách bảo
thiêng liêng từ tiềm thức nên bà con mới dựng lên ngôi chùa để thờ “Thiên, Địa,
Nhân”. Còn có sự duy danh định nghĩa được bà con nhắc đến thì Phương Tòng là đất biểu tượng của tinh thần cao thượng,
ngay thẳng, gan góc trước gió bão như cây tùng, cây bách.
Chùa được xây dựng vào thời Lê Trung Hưng trên khu đất rộng phía tây của làng, sát chân
đê, cổng chùa và Tam Quan hướng thẳng ra sông Hồng gió lộng quanh năm. Tuy chùa
được xây dựng kiên cố, bề thế nhưng qua thời gian với nhiều phen bão gió lụt lội,
giặc dã lên đã bị xuống cấp nhiều. Cuối năm 1934 bà con địa phương góp công của
xây dựng với quy mô như ngày nay.
Như mọi ngôi chùa khác trên đất nước ta, chùa Phương Tòng là
nơi thờ Phật, giảng thuyết Phật học, quảng bá mở rộng đạo Phật, hướng con người
vào điều lành, điều thiện, tránh xa điều ác. Chùa chẳng những đẹp về cảnh sắc
thiên nhiên, mà còn là cơ sở của tổ chức cách mạng có giá trị lịch sử.
Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, hai chiến sĩ cách mạng
là Chu Văn Tập và Lương Hiền từ hoạt động ở phía tây nam Hưng Yên đã chuyển địa
bàn hoạt động lên chùa Phương Tòng, Hùng An, Kim Động. Hai ông đã chọn nơi hoạt
động đầu tiên vào gia đình bà Thứ Thoả - một người sớm được hai ông giác ngộ
cách mạng.
Sau đó, để đảm bảo hơn cho công tác hoạt động cách mạng, hai
ông đã chọn nơi vừa kín đáo vừa tĩnh lặng, đó là chùa Phương với sự giúp đỡ của
vị sư trụ trì yêu nước là sư Dưỡng. Hai ông đã dựa vào chùa để hoạt động, gây ảnh
hưởng cách mạng rộng rãi ra các vũng xung quanh. Được cơ sở bảo vệ chu đáo, Chu
Văn Tập và Lương Hiền sau này đã trở thành cán bộ chủ chốt của chính quyền cách
mạng.
Năm 1946 cuộc kháng chiến bùng nổ, chùa Phương Tòng lại được
chọn làm cơ sở hoạt động an toàn của Đảng bộ huyện và Tỉnh. Tại đây, đồng chí
Chủ tịch lâm thời tỉnh Hưng Yên đã triệu tập lớp học quân sự.
Trong thời gian lớp học quân sự diễn ra tại chùa đã được sự
giúp đỡ nhiệt thành của các vị sư trụ trì (sư Dưỡng, sau đó là sư Mùi) và vãi
Khánh. Sau đó chùa Phương còn được chọn làm địa điểm tổ chức Đại hội của chi bộ
xã Hùng An, là nơi đỡ đầu của trung đội du kích Phương Tòng.
Cuối năm 1951, đầu năm 1952, nhà chùa đã đào trong khu nội tự
5 hầm bí mật để đón phân đội bộ đội tỉnh Hưng Yên về ở tại chùa hỗ trợ cho
phong trào chién tranh du kích địa phương. Năm 1953, theo yêu cầu của tổ chức,
sư Mùi được điều lên công tác ở vùng Khoái Châu, Hoà thượng Đăng Thanh Khiết về
thay. Cũng năm này, thực dân Pháp đã tiến hành càn quét bao vây chùa.
Trong tình hình khó khăn ấy, vãi Khánh đã ra càn phá, ngăn
bước tiến công của địch để chiến sĩ ta có đủ thời gian đối phó. Nhìn chung
trong quá trình vận động cách mạng cũng như trong kháng chiến, chùa Phương Tòng
luôn là cơ sở vững vàng, tạo điều kiện
cho mọi hoạt động cách mạng và chiến đấu chống Pháp của địa phương thắng lợi to
lớn.
Từ năm 1968 đến năm 1975, chùa Phương Tòng thường được chọn
làm địa điểm tổ chức các hội nghị do cấp trên triệu tập, trong đó có một hội nghị
quan trọng ủng hộ phong trào ra đường chống đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai của
Phật giáo miền Nam. Chùa còn là nơi Viên Đông y Trung ương sơ tán tránh bom đạn
địch đồng thời phát triển được các hoạt động nghề nghiệp một cách an toàn.
Hiện vật được lưu giữ trong di tích chùa Phương Tòng còn khá
nhiều. Trên Tam Quan còn có một tượng Phật bà toạ sơn cao 1,4m, 01 chuông đồng
cao 0,8m đường kính 0,5m, đúc năm Minh Mệnh thứ 31. Tượng đặt trên bệ cao được
tạo dáng rất đẹp. Hai tượng Kim Đồng và Ngọc Nữ cao 0,6m đứng hai bên tượng Phật
bà. Bên trong có 21 pho tượng Phật ở Đại Bái và Thượng Điện.
Các pho tượng này đều
làm ở thế ngồi cân đối hài hoà. Hai khánh thờ Đức Ông và Thánh Hiền, xung quanh
khám đều có chạm hình hoa dây sơn màu mận chín; 14 câu đối, 6 bức đại tự, một
khánh đồng đúc năm 1937 cao 0,8m rộng 1,1m. Tất cả các đồ thờ trên đã làm cho
chùa thêm hấp dẫn bởi vẻ đẹp cổ kính và sự uy linh. Chùa Phương Tòng được Nhà nước xếp hạng Di tích lịch
sử cấp quốc gia theo Quyết định công nhận 74 ngày 2/2/1993 của Bộ Văn hoá Thông
tin.
4. ĐÌNH BỒNG CHÂU
Đình được gọi tên theo
tên thôn Bồng Châu xã Phú Cường. Đình thờ 15 vị đẳng thần thời Hùng
Vương và Hai Bà Trưng. Lễ hội được mở tại đình vào các ngày 10/1, 13/3 và 10/11
âm lịch. Đình có kiến trúc theo kiểu chữ Công trên khu đất đẹp cac ráo thoáng
mát giữa một bãi nổi sông Hồng rất thuận tiện cho thuyền bè qua lại.
Đầu tiên, đình được xây dựng ở giữa làng. Về sau do biến động
về thiên nhiên, hàng năm nước lũ sông Hồng dâng cao cuốn lở đất nên đình được
chuyển vào cuối làng giáp đê bối. Mặt tiền của đình quay về phía tây nam giáp
sông Hồng, phía tây áp sát với khu dân cư, phía đông giáp đồng ruộng và thôn Kệ
Châu 1, phía bắc là đồng ruộng. Theo truyền thuyết, đình Bồng Châu được xây dựng
khá sớm. Theo sắc chỉ thời Tiền Lê, triều đình giao cho Thất Gia Trại lập miếu
điện phụng thờ.
Cũng như những ngôi đình ở các làng xã khác, đình Bồng Châu
vừa được coi là trụ sở để dân hội họp, bàn việc làng vưa là nơi thờ Thần Hoàng.
Theo thần phả, đình Bồng Châu thờ 15 vị Đẳng thần có công với nước với
dân, được nhận sắc phong của triều đình;
tuy nhiên, thần phả lưu lại chỉ thấy nói quê quán, ngày sinh, ngày mất, chức vụ
của 6 trong số 15 vị đó.
Thần tích chép rằng: Bà Trần Hồng Nương, quê tại trang An
Thái, huyện Thiên Bản phủ Nghĩa Hưng sinh được hai người con trai, tên là Phổ Hộ
và Linh Lôi. Năm 40, nhà Hán đem quân sang
xâm lược nước ta, đứng trước tình hình đất nước có giặc ngoại xâm, Hai
Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa, ban hành chiếu chỉ kêu gọi nhân dân đứng lên chống
quân xâm lược nhà Hán: “Thư Châu huyện,
mộ hữu văn võ khí tài anh hùng khả dĩ cự chỉ.
Nam tướng nam binh, nữ tướng nữ binh, dẫn sai ứng tuyển dĩ
thụ kì quan tước.” Nghe được chiếu chỉ, ba mẹ con bà bàn nhau ứng tuyển đội
nghĩa quân của Hai Bà Trưng. Bà Hồng Nương tuy tuổi đã cao nhưng còn mạnh khoẻ.
Bà tự mình vấn tóc lên vành khăn giả làm trang nam tử, cùng hai con trai đi vận
động mộ quân.
Chỉ một thời gian ngắn mẹ con bà vận động được trên hai
nghìn người, tổ chức rèn luyện võ nghệ, giáo dục mọi người đồng tâm phù quốc.
Sau đó mẹ con bà Hồng Nương dẫn đội quân của mình tới doanh trại của Hai Bà
Trưng tại Hát Môn (Sơn Tây – Hà Tây ngày nay).
Hai Bà Trưng phong cho hai ông Phổ Hộ và Linh Lôi chức Đô Chỉ
Huy Sứ Tả Hữu Tướng Quân, phong cho bà Hồng Nương chức Nội Thị Phu Nhân, giữ bà
ở lại đại bản doanh để chăm lo việc nước.
Sau khi sắp sếp lại quân ngũ, Bà Trưng giao cho hai ông đặc
trắc đội thuyền binh tuần tiễu đề phòng quân giặc đánh sau lưng. Hai ông cầm
quân lên đường. Tới địa phận Khoái Châu – Kim Động gặp một bến có bãi đất bồi rộng
( nay là Bãi Bồng Châu), thấy thế đất đẹp, địa hình thuận lợi cho việc đóng
quân, hai ông cùng quân sĩ tuyển mộ thêm người tài, lập doanh trại tại chỗ, vừa
canh tác vừa rèn luyện gươm đao.
Sau khi giúp cho dân lập đồn trú, cắt cử người cai quản
hương thôn, hai ông Hồi Đô theo lệnh của Hai Bà Trưng để cùng tướng lĩnh bàn kế
sách tấn công, tiến đánh doanh trại Tô Định.
Cuộc đại chiến đã diễn ra. Quân của Hai Bà Trưng đã đánh tan
quân giặc nhà Hán, chém đầu tướng giặc, giải phóng đất nước. Đây là thời kỳ độc
lập đầu tiên của nước nhà. Hai Bà Trưng lên làm vua hiệu là Trưng Nữ Vương. Sau
khi lên ngôi ổn định triều chính, hai bà
liền mở tiệc đại khai khánh hạ, khao thựởng ba quân theo đẳng cấp, đồng thời ra
chiếu ban cho ba mẹ con bà Hồng Nương phần thực ấp tại quê cũ Nam Định đạo.
Đang độ mùa đông, ba mẹ con bà đi trên một chiếc thuyền rồng
dọc bờ biển để quan sát địa hình điền ấp. Đi đến núi An Từ, đột nhiên trời nổi
lên một trận giông tố, mưa như trút nước, một giải mây vàng từ trên cao giáng
vào sa giá. Nhân gian cho rằng ba mẹ con bà đã đồng bộ tòng vân về cõi Trời. Từ
đó nhân dân địa phương lập đền thờ.
Đền triều Lê Đại Hành năm Thiện Phúc, ba mẹ con đều được thụ
phong sắc Thần vì đã lập nhiều công lớn. Các sắc phong đều có nội dung: Thông
minh khôn khéo, một lòng phò Vua giúp nước, bảo toàn bờ cõi. Khi ra trận tiến
công vũ bão, chiến thắng oanh liệt, dũng mãnh phô trương thanh thế khiến quân
thù khiếp vía. Các triều đại sau này đều có sắc phong ghi công ba vị Đại Vương
Thượng Đẳng Thần, ban hành các quy chế ghi thức trong các ngày sinh, hoá và lễ
hội. Hiện nay tại đình Bồng Châu còn giữ được 15 sắc phong của các triều đại
trước.
Những năm thực dân Pháp cho quân chiếm đóng phía nam tỉnh
Hưng Yên là giai đoạn khó khăn nhất của nhân dân Kim Động. Địch càn quét, bắn
phá rất dã man. Đình Bồng Châu là nơi được cấp trên chọn đặt chạm giao liên giữ
đường dây liên lạc giữa hai quân khu Tả và Hữu ngạn sông Hồng.
Đây là nơi đón bộ đội vượt sông mỗi khi mở chiến dịch; cũng
là nơi chuyển vũ khí, thương binh ta, tù binh địch ra khu an toàn. Từ năm 1951
đến năm 1954, đình Bồng Châu là nơi thường xuyên có các đơn vị thuộc Trung đoàn
chủ lực 42 đến đóng quân mà không bị lộ bí mật vì được nhân dân một lòng che chở,
giúp đỡ.
Một vinh dự khác được ghi nhận là ngày 7/11/1962, Thủ tướng
Phạm Văn Đồng đã về Bồng Châu thăm hỏi tình hình làm thuỷ lợi và đời sống của
bà con ngay tại đình làng. Trong kí ức của nhân dân Bồng Châu xã Phú Cường, nhất
là các cụ đã có mặt trong buổi Thủ tướng Phạm Văn Đồng về thăm, còn in đậm hình
ảnh thân thương của Lãnh tụ đối với đồng bào đồng chí ở vùng bãi xa khuất này.
Tại đình Bồng Châu còn lưu giữ nhiều hiện vật quý: Một kiệu
bát cống sơn son thiếp vàng thời Hậu Lê, đòn kiệu đều trạm trổ đầu rồng, thân
kiệu chạm trổ cách điệu hoa dây hình Long – Ly – Quy - Phượng, mặt hổ phù đuôi
chạm hoa văn hình sóng cuộn; hai cỗ kiệu trung cũng chạm đường nét hoa văn cầu
kì; tám cỗ long ngai chạm trổ tinh vi sơn son thiếp vàng: bốn cổ thuộc thời Lê;
bốn cỗ thuộc thời Nguyễn; một hạc gỗ thời Lê còn giữ được nguyên vẹn đến thời
nay; một quả chuông đúc năm Bính Thìn (1796) cao 1,50m, đường kính miệng 0,8m,
nặng trên 1 tấn; năm bộ đỉnh, đài nến bằng đồng; một bộ quạt 5 chiếc gồm 1 quạt
cái to 10 nan xoè rộng và 4 quạt ngà voi, mỗi quạt được tạo dáng bằng giấy nén
trên nan ngà voi nặng 2kg một quạt. Ngoài ra còn một số đồ tế tự bằng gỗ quý
khác.
Đình Bồng Châu được Nhà nước xếp hạng Di tích lịch sử và nghệ
thuật cấp quốc gia theo Quyết định số 225 ngày 5/2/1994 của Bộ Văn hoá và Thông
tin.
5. ĐỀN BÀ CHÚA MỤA
Đền được xây dựng tại làng Mụa tức thôn Cộng Vũ, xã Vũ Xá.
Tên thường gọi từ xưa đến nay là đền thờ bà Chúa Mụa. Đền được xây dựng trên một
vùng đất cao ráo, thoáng mát sát bìa làng, giữa hai cồn đất có tên gọi từ lâu đời
là cồn Con Voi và cồn Nghiên Bút. Đền xây theo kiến trúc chữ Nhị, thờ bà Trần
Thị Tư còn có tên Trần Thị Ngọc Am thứ phí chúa Trịnh Tráng. Mặt trước của đền
quay về hướng tây nam có dòng sông Cửu An chạy dọc từ Ngàng về chợ Thi.
Đền được xây từ thế kỷ 17.Trải qua nhiều năm tháng liên tục
có bão gió, lụt lội và chiến tranh tàn phá nên đền đã bị hư hại nhiều. Nhân dân
đã góp công sức sửa chữa, tu tạo lại đền nhiều lần trong đó có 4 lần trùng tu
vào thời nhà Nguyễn.
Theo văn bia và sắc phong cũng như theo lời người già kể lại
sự tích bà Chùa Mụa được chép lại như sau:
Bà Trần Thị Tư sinh ngày 5 tháng 5 năm Canh Thìn (1580), có
sắc đẹp lộng lẫy và đức tính chăm chỉ nông tang, bờ bãi lại có giọng hát bổng
trầm, thánh thót như suối reo, chim hót. Một hôm trên đường cái quan, chúa Trịnh
Tráng cùng quân quan đi kinh lý qua khu dân đang lao động.
Nhà chúa bỗng nghe tiếng hát từ xa vọng lại. Tiếng hát làm ngơ
ngẩn bề trên. Hát rằng: “Tay cầm bán
nguyệt xânh sang/ Hàng trăm thảo tặc lai hàng tay ta”.Chúa Trịnh Tráng bèn cho
mời cho gái vừa hát vừa cắt cỏ dưới đồng lên hỏi chuyện. Cô thôn nữ vừa đẹp người,
vừa hát hay lại đối đáp khẩu khí khác người, tỏ rõ sự nền nã mà kiêu sa thông
tuệ. Chúa truyền rước nàng về Thăng Long và đổi tên nàng thành Ngọc Am.
Từ ngày về phủ Chúa, bà được giao công việc chăm lo đèn
sách, lễ nghi và sắp đặt ngôi thứ cho các cung tần mỹ nữ trong nội phủ. Được
nhà Chúa yêu dấu cải họ cho bà từ họ Trần thành họ Trịnh: Trịnh thị Ngọc Am.
Sau một thời gian, bà sinh con gái. Chúa Thượng hết mực yêu
quý, đặt tên con gái là Trịnh Thị Minh và ban cho bốn đĩa vàng và một đĩa bạc
làm vật gia bảo. Trời bắt tội, Công chúa Trịnh Thị Minh sớm lìa đời để lại nỗi
thương xót tột độ cho bà Ngọc Am. Qúa đau khổ, bà muốn xa lánh thế tục nhiều hệ
luỵ, oan trái nên đã xin Chúa Trịnh Tráng cho bà về quê xuống tóc ăn mày cửa Phật.
Chúa Trịnh không thể giữ được bà nơi cung cấm, đã cho khai
con sông nhánh đi qua làng Mụa để vận chuyển gỗ, đá xây sẵn cho bà một ngôi đền
và một ngọn tháp. Ngôi đền có hai dãy nhà nhiều gian, ở giữa hai dãy nhà là ngọn
tháp Cửu phẩm Liên Hoa, cao trăm bậc ghép nối bằng hàng trăm phiến đá, bốn góc
tháp được kết dính chốt giữ bằng cốt chì và đồng.
Từ khi rời phủ Chúa về tu ở làng, bà rất chăm chỉ tụng kinh
niệm Phật. Bà còn cho tu sửa chùa chiền quanh vùng, giúp dân khai khẩn ruộng đất,
khơi dòng đào sông, hướng dẫn cho dân làm lúa nước. Bà rất thương người, gặp ai
hoạn nạn khó khăn, bà sẵn lòng làm phúc giúp gạo cho tiền, cho thuốc chữa bệnh.
Theo văn bia ghi lại thì tháp Liên Hoa được xâ ựn 3 năm mới
song . Chúa Trịnh Tráng cho tuyển thợ đá giỏi từ nhiều nơi về xây tháp vừa tạc
tượng bà ngay từ khi bà còn sống. Bà mất năm 68 tuổi sau 28 năm rời phủ Chúa về
tu tại làng.
Thi hài bà được mai táng tại chân tháp Cửu phẩm Liên Hoa. Đền
thời tạo loạn, quân quận He nổi lên kéo qua làng Mụa đã cho dỡ đền, phá tháp lấy
đồng chì rèn đúc vũ khí. Nhân dân đã cất dấu được tượng bà và các pho tượng đá
cùng ngọn tháp hình nậm.
Một thời gian sau, nhân dân lại sửa sang tu tạo ngôi đền và
đưa tượng về thờ như cũ để tưởng nhớ công lao của bà. Bà Chúa Mụa mất ngày mùng
năm tháng giêng, nên nhân dân lấy ngày đó làm ngày lễ hội thường niên.
Ngoài giá trị về văn hoá, đền Bà Chúa Mụa còn ghi dấu nhiều
sự kiện trong quá trình phát triển đi lên của địa phương. Nơi đây là nơi hội họp
bí mật của Đảng bộ địa phương thời kỳ địch o – ép, càn quét gay gắt nhất. Đền
cũng là nơi các đơn vị thuộc Trung đoàn chủ lực 64 và các đại đội bộ đội địa
phương tỉnh luân phiên về đóng quân, rèn cán.
Trong đền còn giữ được nhiều hiện vật quý: 3 tấm bia lớn: 1
bia niên hiệu Đức Long (1629-1634) ghi tiểu sử Bà Chúa Mụa, 1 bia “Trần tộc bia
ký” ghi công đức của cộng đồng họ Trần, 1 bia ghi công đức chúa Trịnh Tráng cho
xây đền và tháp; một bức đại tự lớn khắc 3 chữ Uy linh từ, dưới bức đại tự là
bàn thờ đá có khắc 3 bức phù điêu Long cuốn thuỷ với hình tượng sóng nước, hoa
lá rất tinh vi, nghệ thuật; hai câu đối sơn son thiếp vàng khắc chữ nổi:
“Tài cao nghĩa trọng, uy thế trấn sơn hà
Đức tích nhân tu, chúa cung sùng Phật đạo”
Đặc biệt quý là những pho tượng đá trong hậu cung: tượng bà
Chúa Mụa, hai pho tượng thị vệ, hai pho Kim Đồng Ngọc Nữ, một phỗng đá, một bát
hương đá, hai bát sứ thời Lê. Năm 1963 khi đào sông Cửu An - một công trình thuỷ
lợi quan trọng của địa phương, dân công đã đào được đĩa vàng đĩa bạc mà chúa Trịnh tặng cho mẹ con bà Trịnh Thị Ngọc
Am chìm sâu dưới đáy giếng nước trước cửa đền.
Đền Bà Chúa Mụa đã được Nhà nứơc công nhận là Di tích nghệ
thuật cấp Quốc gia theo Quyết định số 2233 ngày 26/6/1995 của Bộ Văn hoá –
Thông tin.
6. ĐÌNH DUYÊN YÊN
Thôn Duyên Yên thuộc xã Ngọc Thanh có ngôi đình bề thế được
gội theo địa danh là đình Duyên Yên hay đình Lở (tên nôm bà con quen gọi từ lâu
đời). Đình xây dựng vào năm 1786, kiến trúc hình chữ Nhị trên khu đất rộng, cao
ráo, có mặt tiền chính nam hướng ra đê sông Hồng, quanh năm bờ bãi dâu mầu xanh
tốt.
Đình thờ bốn vị thần: An Sinh Vương Trần Liễu. Trần Liễu
sinh năm 1211, quê thuộc hương Tức Mạc, phủ Thiên Trường (tỉnh Nam Định ngày
nay) thân phụ của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, người anh hùng dân tộc văn võ
song toàn đã lập nhiều chiến công hiển hách trong 3 lần kháng chiến chống quân
Nguyên Mông.
Ngày mồng 1 tháng 4 niên hiệu Nguyên Phong thứ nhất (1251)
Trần Liễu qua đời thọ 41 tuổi. Trên núi An Phụ, huyện Kinh Môn và nhiều địa
phương đã lập đền thờ và lấy ngày người mất làm ngày mở hội truyền thống, một tập
quán tốt đẹp được duy trì từ nhiều thế kỷ.
Tại Đình Duyên Yên, từ văn tế đến văn bia, bia ký đều ghi
chú ngày giỗ (18/10) và công đức của ngài. Dân vùng Duyên Yên thường trôi giạt
đi kiếm sống ở nhiều nơi vì nạn vỡ đê, lụt lội và mất mùa. Đại vương rất thương
dân, ngài bày cho dân đắp đê mỗi năm một vững chắc hơn, chiêu tập dân tản mác
nhiều nơi trở về quê cũ làm ăn.
Ngài còn lệnh cho chức dịch bản điạ cấp tiền bạc, ruộng đất
để dân canh tác thoát khỏi cảnh đói khát, tha phương cầu thực nơi đất người. Nhờ
có đức lớn của ngài mà lập nên ấp An Sinh, sau thành làng Duyên Yên đông đúc,
trù phú. Ngày 18/10 hàng năm Duyên Yên mở hội làng để tôn vinh tưởng nhớ ngài.
Theo lời kể lại từ nhiều năm ngày đó là ngày ngài phát lệnh
chiêu tập dân về lập ấp, nhận thêm ruộng đất về cày cấy. Văn bia, văn tế đã được
ghi chép với lời lẽ hết sức trân trọng suy tôn ngài là Anh Linh Hiển Ứng. An
Sinh Vương sau đó còn được truy phong là Khâm Minh Đại Vương.
Còn ba vị thần khác có sự tích tóm tắt như sau: Đức Thiên Bồng
Phong Lôi Đại Vương là một vị tướng có vóc dáng cao lớn, võ nghệ cao cường được
An Sinh giao cho tập đội dân binh, dạy cho dân biết võ thuật và cách bài binh bố
trận.
Thời đó tất cả vương hầu, chức dịch lớn nhỏ đều phải thành lập
đội dân binh dưới quyền, theo chính sách “tĩnh ư dân, động ư lính”, tức là lúc
yên là người dân cày, khi có biến là người lính cầm vũ khí giữ làng; Đức Thiên
Trung Quảng Tế Đại Vương là người đựoc An Sinh Vương giao cho việc dạy dân ấp
cày cấy, biết cách phòng chống mưa bão, lụt lội, hạn hán, vượt qua những thử
thách khắc nghiệt của một vùng chiêm chũng luôn bị thiên tai đe doạ.
Đức Đại Vương là người am hiểu tứ thời, bát tiết, phong vũ
hàn nhiệt nên người đã có công lớn trong việc mở mang nghề trồng trọt nên người
đã có công lớn trong việc mở mang nghề trồng trọt, cấy cày ở vùng đất này thích
hợp với thời tiết phong thuỷ; Quốc Vương Cương Vực Đại Vương là người được An
Sinh Vương giao cho chăm lo việc học hành, lễ giáo của dân.
Người có phong tháo hào hoa, khoan thai đĩnh đạc, thông hiểu
sách sử của tiền nhân, dạy cho dân về trung hiếu tiết nghĩa, tam cương ngũ thường,
được dân ấp kính trọng.
Sau này, trong kháng chiến chống thực dân Pháp, đình Duyên
Yên, dù bị ép giữa hai gọng kìm đồn bốt của giặc Pháp là bốt Ngọc Đồng và bốt Dốc
Lã nhưng vẫn có nơi thường xuyên diễn ra các hội nghị quan trọng của huyện và tỉnh,
là nơi tập kết bộ đội chủ lực và du kích để đánh địch trên đường giao thông chiến
lược 39A và đê sông Hồng trong các trận đánh phục kích chống địch càn quét từ
phía thị xã Hưng Yên và từ sông Hồng đổ quân lên.
Duyên Yên là đất hiếu học, có truyền thống yêu nước từ xa
xưa nên sau này đã sớm biết tiếp thu ánh sáng cách mạng do Đảng Cộng Sản và
lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soi rọi tới. Nhiều cán bộ từ Mặt trận Việt Minh thời Tền
khởi nghĩa sau này đã trở thành cán bộ cao cấp của Đảng hoạt động trên các lĩnh
vực chính trị, kinh tế quản lý Nhà nước, có người được giao chức trách quan trọng
là Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung Ương, Trưởng ban Tổ chức Trung ương (đồng
chí Trần Đình Hoan).
Ngày mồng Hai Tết Nguyên đán 1999, tại đình Duyên Yên, đồng
chí Lê Khả Phiêu, Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng đã có cuộc chò truyện
với bà con và lãnh đạo địa phương. Ở vương cảnh trứơc cửa đình, đồng chí Lê Khả
Phiêu đã trồng một cây đa lưu niệm.
Tại di tích đình Duyên Yên hiện còn lưu giựcd đựơc một số hiện
vật quý: hiện vật bằng đá có 2 nghê, 2 phỗng, 3 bia; bằng đồng có 2 bát hương,
3 bộ tam sự; bằng gỗ chạm khắc son thiếp bạc vàng có 4 cỗ ngai, 2 đôi hạc, 1 bộ
chấp kính và nhiều đồ thờ khác.
Đình Duyên Yên được Nhà nước xếp hạng Di tích kiến trúc nghệ
thuật cấp quốc gia theo Qyết định số 78 ngày 23/8/2004 của Bộ Vă hoá – Thông
tin. Làng mở hội tại đình vào ngày 18 tháng 10 hàng năm, lễ hội được đông đảo
bà con trong vùng tìm đến tham dự. Tại sân đình và trên bãi cỏ ven đê trứơc
đình có những trò chơi dân gian được truyền lại từ nhiều năm như: đánh đu, đánh
chọi gà, thi vật…
7. ĐÌNH ĐỒNG HẠ
Đình Đồng Hạ là ngôi đình được gọi tên theo tên làng. Thôn Đồng
Hạ nay thuộc xã Đức Hợp, một trong số xã đông dân cư và phát triển trên nhiều
lĩnh vực kinh tế xã hội của huyện, được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng
Lực lượng vũ trang nhân dân. Đình thờ
Lưu Lang Đại Vương, hàng năm mở hội vào ngày 9/9.
Theo thần tích, sắc phong thì Lưu Lang Đại Vương là người có công lớn cùng Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn
12 sứ quân. Sự tích được ghi chép và truyền khẩu lại như sau:
Trên quê hương Đinh Bộ Lĩnh có một Tù trưởng họ Lưu, vốn cả
hai vợ chồng đều là người hiền lành, được cư dân và họ mạc hết lòng yêu mến, chỉ
phiền một nỗi đã lớn tuổi mà vẫn muộn đường con cái. Vợ chồng Lưu Tù trưởng đi
khắp nơi, giúp của, giúp công cưu mang kẻ khó, tu tạo đền miếu, đình chùa, sớm
tối đèn nhang tụng niệm để mong có được mụn con nối dõi.
Một thời gian sau, phu nhân mang thai rồi sinh hạ được một cậu
con trai khôi ngô, vạm vỡ, thông minh hơn người. Ông bà đặt tên con là Lưu
Lang. Năm Lưu Lang 13 tuổi thì cả hai vị thân sinh đều qua đời. Lưu Lang cùng
nhóm trẻ chăn trâu trong đó có Đinh Bộ Lĩnh kết thân cùng nhau rèn luyện võ thuật,
tập trận cờ lau chờ ngày ứng nghĩa.
Trong số bạn thân của Lưu Lang có người giỏi giang nổi tiếng
như Lưu Cơ, Nguyễn Bậc, Đinh Điền. Sau này, khi đất nước lâm nguy, giặc giã nổi
lên làm nhân dân điêu đứng nhất là sự tranh chấp quyền lực và ngôi báu giữa 12
sứ quân diễn ra quyết liệt, các tráng sĩ cờ lau đã xung trận oai hùng. Sau những
chiến công hiển hách ở Phù Kiệt, Tế Giang, Bố Hải, Đằng Châu, dẹp tan 12 sứ
quân, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi vua, lấy quốc hiệu là Đại Cồ Việt đóng đô ở Hoa Lư.
Nhà vua phong cho Lưu Cơ là Đô Hộ Phủ Sĩ Sự, Lưu Lang làm Phó Sĩ Sự.
Một lần đưa thuộc hạ đi tuần du vãn cảnh, qua đất Khuất Châu
thấy đất đai màu mỡ, cư dân thưa thớt nhưng thuần phác, Lưu Lang dừng lại đây một
thời gian cho lính triệu tập thêm dân, quy tụ thành chân ấp, xá trại rồi hướng
cho cư dân xây dựng nhà cửa, nhiệm sở, doanh trại, đền miếu, cách cấy lúa trồng
dâu, soạn thảo gia đạo như lệ luật phe giáp.
Lịch sử lại có tuần đột biến. Đó là khi Thập đạo tướng quân
Lê Hoàn được sự che chở tin yêu của Thái hậu đã lên nắm quyền bính chèo chống hiểm hoạ thù trong giặc
ngoài. Lúc này nghĩ rằng Tướng quân Lê Hoàn làm trái với di huấn của Tiên Đế,
tư thông với Thái hậu nên Lưu Lang bèn
bàn với Định Quốc Công Nguyễn Bậc và Ngoại Giáp Đinh Điền: “Sớm trừ được kẻ
gian tham để Tiên Đế yên lòng nơi chín suối”. Bàn xong, các ông đem quân hòng
chặn đứng các thế lực của Thập đạo tướng quân Lê Hoàn.
Trong trận này, lực lượng của các ông bị luồng lửa của Tướng
quân Lê Hoàn phóng ra theo chiều gió thuận cuốn đi tan tác. Lưu Lang và Đinh Điền
tử trận. Lưu Lang không trở về nhưng uy danh của Lưu Tướng quân còn vang mãi.
Cư dân Đồng Hạ dựng miếu thờ ông. Các triều vua Lý, Trần sau này đều duy trì
phong ông là Thượng Đẳng Phúc Thần.
Đình Đồng Hạ còn chứng kiến nhiều sự kện lịch sử quan trọng
khác. Đầu năm 1943, tại đình Đồng Hạ đã ra đời tổ chức Thanh niên Phan Anh (hoạt
động hợp pháp tránh sự khủng bố của giặc Nhật, sau này chuyển thành Thanh niên
cứu quốc trong mặt trận Việt Minh) với con số gần hai chục đoàn viên. Hình thức
công khai là tập võ, rèn luyện thân thể nhưng bên trong là tuyên truyền lòng
yêu nứoc, căm thù giặc.
Phong trào cứu quốc từ đây đã lớn mạnh, thu hút đựơc nhiều
người tham gia. Hưởng ứng lời kêu gọi của Huyện bộ Việt Minh, rất đông bà con Đồng
Hạ đã theo đoàn viên cứu quốc xuống Đống Long phá kho thóc Nhật, cứu đói cho
dân (tháng 3/2945).
Đến tháng 7, được tin đoần thuyền chở thóc do Nhật thu gom của
dân chuyển bằng đường sông về thị xã Hưng Yên, thanh niên Đồng Hạ, Đức Chiêm dưới
sự chỉ huy của ông Nguyễn Cảo hạ quyết tâm đánh chặn, giành lại số thóc này
chia cho bà con đang bị đói. Cuộc đấu tranh thắng lợi, bà con hồ hởi đến đình Đồng
Hạ nhận thóc được chia cho từng hộ đang đứt bữa.
Ngày 10/8/1945, viên tri huyện Kim Động mang lính khố xanh
đi kiểm tra đê khu vực Đức Hợp. Nhân dân Đức Hợp đã buộc hắn phải theo về đình
để dân hỏi tội. Cuộc đấu tranh chớp nhoáng mà kiên quyết gây được sự phấn chấn
trong nhân dân để tiến tới ngày cùng nhân dân toàn huyện giành chính quyền, thiết
lập trật tự xã hội mới dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ Tịch Hồ Chí Minh.
Trong suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ, đình Đồng Hạ lại được coi là điểm thuận lợi cho Đảng bộ địa phương mở hội
nghị, tổ chức các lớp tập huấn quân sự và chính trị, là nơi tập kết các lực lượng
vũ trang của huyện và tỉnh để đi vây bốt, diệt đồn, chống địch càn quét.
Đình Đồng Hạ còn vinh dự được nhiều cán bộ lãnh đạo cấp cao
của Đảng và Nhà nước về thăm gặp gỡ và nói chuyện với bà con địa phương nhân dịp
các đồng chí đi kiểm tra phong trào, trong đó có đồng chí Trường Chinh, Chủ tịch
hôi đồng Nhà Nước, đồng chí Tố Hữu, thường trực Ban Bí thư Trung ương Đảng và
nhiều Bộ trưởng, Ủy viên Trung ương khác.
Đình Đồng Hạ còn lưu giữ nhiều hiện vật quý: một bia niên hiệu
Cảnh Trị thứ tư, 1 bia hậu niên hiệu Khải Định năm thứ năm, 1 bia ghi công đức
hai lần trùng tu đình; một long ngai bài vị, 1 kiệu bát cống, 1 kiệu long đình,
1 bộ đỉnh dồng và 4 cây nến đồng, 1 bát hương sứ thời Nguyễn; 7 sắc phong thời
Lê và nhiều đồ thờ khác.
Đình Đồng Hạ được Nhà nước công nhận Di tích kiến trúc nghệ
thuật cấp quốc gia theo quyết định số 78 ngày 23/8/2004 của Bộ Văn hoá – Thông
tin.
8.ĐÌNH VÀ CHÙA ĐỐNG LONG
Đống Long là một trong 6 thôn của xã Hùng An. Đình và chùa
được xây dựng gần nhau ở giữa khu dân cư đông đúc có trục đường chính dẫn đến
các xóm rất thuận lợi cho việc sinh hoạt văn hoá, tín ngưỡng của nhân dân.
Đình Đống Long là một trong số đình làng có kiến trúc bề thế,
hoành tráng và cổ kính trong huyện. Đình được xây dựng vào thời Hậu Lê, niên hiệu
Chính Hoà thứ 15 (Giáp Tuất 1694), toạ lạc trên khu đất 222 mét vuông, mặt tiền
hướng tây nam có cây đa, giếng nước đậm chất nông thông Việt. Đình xây dựng
theo chữ Đinh có Hậu Cung, toà Tiền Tế 5 gian và dĩ, mái lợp ngói mũi phẳng,
hai đầu hồi có hai đầu kìm đắp nổi rất sinh động. Từ hai đầu hồi xuôi xuống
hình đao mềm mại trên guột lá cách điệu.
Khu Tiền Tế 5 gian có quy mô thông thuỷ 185m, kết cấu bằng hệ
thống hai hàng cột 8 cột lilm cao 5m đặt trên các trụ đá tảng rất vững chãi. Hệ
thống cột chịu lực này được kết nối với nhau thành một bộ khung bằng các vì
kèo, từ nóc xuống mái được kết cấu theo kiểu chồng rường đầu kề, các con đường
đều chạm nổi hình lá lật cách điệu.
Nghệ thuật chạm khắc rất dụng công làm cho ngôi đình có nét
tinh tế: xà đều có soi gờ chỉ, chạm nổi cách điệu mô phỏng theo cách tích chuyện
cổ. Gian giữa có 8 bức cuốn, 2 bức đại tự đều được chạm khắc tỉ mỉ, chau chuốt.
Chùa Đống Long có tên chữ Khai Nguyên Tự được xây dựng thời
Nguyễn, kiến trúc theo kiểu “Nội công ngoại quốc”, trên một khu đất 3.220 mét
vuông, ở thế đất Long giáng. Toàn bộ ngôi chùa, từ Tiền Đường, Nhà Tổ đến Hậu
Cung đều xây dựng bằng gỗ lim và các chất liệu quý.
Đình Đống Long thờ Tướng quân Triệu Quang Phục và 5 vị Thành
Hoàng có tên là Trương Hống, Trương Hát, Trương Lừng, Trương Lẫy, và Trương Thị
Kim Dung, những tướng tài đã lập nên nhiều chiến công lừng lẫy dưới cờ khởi
nghĩa của Triệu Quang Phục.
Theo sách “Các triều đại Việt Nam” cùng với sách chuyên khảo
về Triệu Việt Vương và thần tích, thần phả lưu giữ tại khu di tích, có thể tóm
tắt về vị thần được cư dân Đống Long hương khói thờ cúng như sau:
Triệu Quang Phục gốc là người Chu Diên (thuộc khu vực Hưng
Yên – Hải Dương) là một vị tướng tài dưới triều vua Lý Nam Đế. Trước khi qua đời,
Lý Nam Đế trao việc binh quyền cho Triệu
Quang Phục, lúc ấy thế giặc đang mạnh, Triệu Quang Phục bèn nghĩ kế bảo toàn lực
lượng chờ thời cơ. Ông đưa quân về khu Dạ Trạch – Mạn Trù (phủ Khoái Châu). Đây
là một khu đồng lầy, đất rộng mênh mông, lau sậy um tùm. ở chính giữa lại nổi
lên một bãi đất rộng, khô ráo có thể dừng chân dựng trại. Với địa hình hiểm yếu,
đầm Dạ Trạch thuận lợi cho việc phát triển sản xuất và phòng ngự để dần tăng
binh lực chống lại giặc Lương. Tại đầm Dạ Trạch ban ngày nghĩa quân sản xuất,
ban đêm đánh úp khiến địch không kịp trở tay và ngày càng rệu rã. Sau Lý Nam Đế,
Triệu Quang Phục lên nắm quyền, xưng hiệu Triệu Việt Vương, dân gian gọi ông là
Dạ Trạch Vương. Đến năm Canh Ngọ (550) nhà Lương có quân giao chiến, giết được
tướng giặc Dương Sàn, thu lại kinh đo, khôi phục nền độc lập cho quốc gia.
Năm Đinh Sửu (557), Lý Phật Tử - một hậu duệ của nhà Lý muốn
giành lại ngôi nhà Lý đã đem quân về tuyên chiến với Triệu Việt Vương. Không muốn
cảnh nồi da nấu thịt, binh sĩ và lương dân đổ máu vì sự chén giết giành ngôi
báu, nên Triệu Việt Vương thuận lòng sẻ quyền lực cho Lý Phật Tử, theo đó, Lý
Phật Tử đóng đô ở Ô Diễn (Đại Mỗ - Từ Liêm), Triệu Việt Vương giữ miền Long Biên, lấy bãi Quân Thần (Thượng Cát – Từ
Liêm) làm ranh giới. Sự hoà hiếu không mấy bền vững, chỉ duy trì được tới năm
Tân Mão (571) thì Phật Tử bất ngờ đem quân vây hãm Triêụ Việt Vương. Trong thế
trận bị động, Triệu Việt Vương đã tự định đoạt số phận bằng cách gieo mình xuống
dòng nước siết thuộc địa phận Đại Nha.
Nhân dân vùng này lập đền thờ ông. Các triều vua sau đó đều
ban sắc chỉ phong Triệu Việt Vương là Minh Đạo Hoàng Đế (năm Trung Hưng thứ
tư). Đến năm Long Hưng thứ 21 (1313) đời Trần Anh Tông, vua lại ban them 4 chữ
Thánh Liệt Trần Vũ. Sau khi ông mất, cư dân Đống Long tôn ông làm Thành Hoàng để
đời đời nhớ tấm gương nghĩa liệt, con cháu hàng năm đèn hương hoa trái thờ
cúng.
Lại nói về sự tích 5 vị Thành Hoàng khác được cư dân Đống
Long thờ ở đình.
Ở vùng Như Nguyệt (thuộc Bắc Ninh) có bà Lê Thị Diệu một đêm
nằm mơ thấy 5 ngôi sao chiếu vào người, một điềm kỳ diệu. Qủa nhiên sau đó bà
sinh ra được 4 chàng trai và một cô gái. Bốn anh em Trương Hống, Trương Hát,
Trương Lừng, Trương Lẫy đều có tướng mạo khôi ngô, thiên tư mẫn tiệp. Cô út
Trương Thị Kim Dung cũng có nhan sắc và so trí thông minh hơn hẳn mọi cô gái
cùng thời. Năm anh em sống cảnh bần hàn sớm biết căm thù quân ngoại bang tàn
sát, cướp bóc dân mình nên đã cùng nhau nuôi chí lớn.
Năm anh em đã cùng nhau gia nhập nghĩa quân do tướng quân
Triệu Quang Phục cầm binh tại bản doanh Dạ Trạch. Chẳng bao lâu 4 người anh
trai đều lần lượt lập công lớn, trong đó nổi bật là trận đánh ở Đông Kết bắt sống
tướng giặc, diệt hàng ngàn tên.
Tại một trận đánh khác ở khu Vườn Chuối (ngoại vi Dạ Trạch)
cô em gái Trương Thị Kim Dung giả đóng vai ca nương đã khéo léo trà trộn vào
hàng ngũ giặc, dụ giỗ rồi bắt sống tên tướng giặc Tiêu Đạt. Thời vua Lê, niên
hiệu Cảnh Hưng thứ hai, triều đình ban sắc phong Tứ Tướng Nhất Thần Tiên cho 4
tướng tai hò Trương và chuẩn cho cư dân Đống Long được tôn các ngài làm Thành
Hoàng
Trải qua bao thăng trầm của lịch sử cũng như bao gió bão khắc
nghiệt của thiên nhiên, đình và chùa Đống Long đã bị hư hại và phải trùng tu
nhiều lần. Đình đã bị mất một phần Hậu Cung. Khuôn viên chùa đã không còn
nguyên vẹn hàng cây cổ thụ. Tuy nhiên, cả đình và chùa đều được chính quyền và
nhân dân chăm sóc, tu tạo và giữ cho di tích này vẻ thanh khiết uy nghiêm cố hữu
đồng thời là nơi lưu giữ nhều sự kiện lịch sử của địa phương trong tiến trình đấu
tranh cách mạng.
Những năm 1939 – 1944, Đống Long là địa bàn được cán bộ Việt
Minh về gây cơ sở, cả đình và chùa là nơi dừng chân an toàn của cán bộ. Khi
Cách mạng tháng Tám thành công, tại đình đã hình thành các đơn vị vũ trang chiến
đấu, đội nữ du kích đã hình thành các đơn vị vũ trang chiến đấu, đội nữ du kích
Hoàng Ngân hội tụ những nam nữ thanh niên tích cực nhất của làng.
Hai năm 1945 – 1946 là thời điểm khắc nghiệt nhất bởi nạn
đói đã diễn ra hết sức trầm trọng. Quân đội phát xít Nhật kéo vào Hưng Yên, thu
gom thóc của dân mang về chùa Đống Long lập thành kho hàng mấy trăm tấn. Không
thể để bà con mình chịu mãi cảnh đói khổ cơ cực, lãnh đạo Việt Minh huyện chủ
trương đánh phá kho thóc Nhật đóng ở chùa Đống Long chia cho dân.
Theo kế hoạch đã được chuẩn bị chu đáo, ngày 14/3/1945, từ
nhiều ngã đường từng đoàn người quang gánh trên vai kéo về Đống Long. Phối hợp
với bà con tại chỗ giương cao cờ đỏ sao vàng tiến vào phá kho thóc dưới sự chỉ
huy của nữ cán bộ Việt Minh Nguyễn Thị Hưng.
Hành động táo bạo này đã mang lại kết quả to lớn: kẻ địch bất
ngờ không kịp trở tay đối phó; 200 tấn thóc từ trong kho đã được phân tán về
các thôn cùng ngõ hẻm, đẩy lùi nan đói; gây được niềm phấn khích to lớn cho các
địa phương và tạo đà cho nhiều cuộc đấu tranh phá kho thóc Nhật liên tiếp nổ ra
trong toàn huyện sau đó.
Nhân dân Đống Long lấy ngày 10/3 âm lịch làm ngày hội làng.
Tại cả hai nơi đình và chùa ngày nay đều
có nghi thức lễ hội long trọng được bà con hưởng ứng sôi nổi hào hứng.
Các hiện vật còn lưu giữ được:
Tại đình 1: ngai thờ và 1 cỗ kiệu bát cống thời Nguyễn, 3
bát hương thời Lê; 1 bức đại tự và 2 bộ cửa võng. Đặc biệt giá trị là một hòm sắt
đặt trên giá trúc, trong hòm lưu giữ 12 bản sắc phong của các triều đại vua: Đồng
Khánh, Thành Thái, Tự Đức, Khải Định.
Tại chùa: 2 bộ đỉnh đồng; 4 cây đèn nế đồng; 1 bát hương thời
Nguyễn đường kính 30cm có trang trí lưỡng long chầu nguyệt. Đặc biệt giá trị là
33 pho tượng phật với nhiều thế khác nhau bằng chất liệu đồng và gỗ quý, tạc vào
thời Lê Cảnh Thịnh. Cả 33 pho tượng này đều còn giữ được tương đối nguyên vẹn.
Năm 2000 đình và chùa Đống Long được Nhà nước xếp hạng Di
tích lịch sử và kiến trúc cấp quốc gia của Bộ Văn Hoá.
9.ĐÌNH THANH CÙ
Đình Thanh Cù thuộc xã Ngọc Thanh có tên Nôm là Đình Gò, thờ
Linh Lang Đại Vương, mở hội làng hàng năm vào ngay 10/3 năm âm lịch. Theo nhân
dân địa phương truyền lại thì trước đây trên vùng đất này có một đống đất cao mọc
lên, từ đó hàng năm có tên là Thanh Cù (làng Gò). Đình được xây dựng ở phía
đông bắc của làng, nơi có thế đất hẹp cao ráo mát mẻ, thuận lơi cho việc đi lại
lễ bái hội họp của bà con. Ba phía đông, tây, nam áp sát với khu dân cư. Phía Bắc
giáp với đồng ruộng.
Theo truyền thuyết, đình Thanh Cù được xây dựng khá sớm, khoảng
năm 1691- cách đây hơn ba thế kỉ. Đình trước đây ngoài thờ Thành Hoàng làng còn
là trụ sở để hội họp bàn việc làng. Thành Hoàng làng được thờ ở Hậu Cung, là
nơi tôn nghiêm nhất trong quần thể kiến trúc của đình. Khi hội họp hoặc việc
làng, cửa Hậu Cung được đóng lại để đảm bảo sự tĩnh lặng trang trọng.
Qua nghiên cứu thần tích sắc phong, đình Thanh Cù thờ Thành
Hoàng làng là Linh Lang Đại vương. Thần tích chép rằng: Từ nhỏ Linh Lang đã rất
thông minh ham học văn võ. Chưa đầy một năm mà kinh sách của Phật tất cả đều
tinh thông. Ngày tháng trôi đi, chàng càng học càng nổi danh tài cán. Khi Linh
Lang bước vào tuổi thanh xuân thì cũng là lúc quân Mông Cổ kéo vào xâm lược nước
ta. Đời vua Trần Nhân Tông, tướng Nguyên là Toa Đô đem hơn 40 vạn quân chia làm
hai đường thuỷ bộ tiến vào nước ta. Trước tình hình đất nước như vậy, Linh Lang
đã nói: “Con người ta sinh ra ở đời, phải tỏ rõ là bậc đại trượng phu, nơi chiến
trường da bọc thây, không sờn chí lùi bước. Nếu không liều chết, cứu dân trong
lúc gian nan thì lấy gì ghi tên sử sách, để tiếng cho đời sau”. Ông dâng biểu tỏ
phương lược diệt giặc và tự mình lập quân Hưng Nghĩa để xung trận. Vua ngợi
khen ý chí của ông và đồng ý.
Ông thu thập quân sĩ được hơn một vạn người phân bổ thành cơ
đội, rèn luyện tập trận pháp, tự lấy hiệu là “Thiên Tử quân” và phất cờ nghĩa,
đánh thắng quân Nguyên ở Bàn Than. Sau đó nghĩa quân tiếp tục truy kích, đánh
tan quân địch ở sông Đông Mai, hội với cánh quân của Trần Hưng Đạo và Trần Nhật
Duật ở Vạn Kiếp.
Tiếp đó ông lại cho quân tiến đánh giặc Nguyên ở Mạn Trù, nhổ
trại Đông Kết, một ngày giao chiến 8 lần thì cả 8 đều thắng trận, chém hơn 3 vạn
tên, bắt sống được nhiều tướng giặc trong đó có Lý Hoà La cùng rất nhiều binh
lính. Quân Nguyên từ đó sợ, không dám tiến đánh nước ta nữa.
Đất nước bình yên trở lại. Do có công đánh giặc Nguyên Mông,
Linh Lang được phong chức Đại Vương. Ghi nhận công lao của Linh Lang, các triều
đại sau này đều phong sắc để nhân dân tôn thờ Thành Hoàng làng, kế thừa truyền
thống yêu nước, góp phần gìn giữ nền độc lập dân tộc. Qua nhiều biến đổi lịch sử,
những sắc phong của thời Trần đã dần thất thoát. Hiện di tích chỉ còn 20 sắc
phong của triều Lê và triều Nguyễn.
Đình Thanh Cù là di tích lớn. Theo nhân dân từ xa xưa đình
có nhiều hiện vật quý. Hiện chỉ còn 3 kiệu bát cống thời Lê, trên tay đòn của
kiệu đều chạm trổ rồng có tóc, râu hình đao lửa đẹp và thanh. Ngoài kiệu bát cống
còn kiệu long đình, thân chạm hoa dây rất đẹp.
Các kiệu trên đều sơn son thiếp vàng lộng lẫy. Ở đình Thanh
Cù còn nhiều đồ thờ quý giá khác, đặc biệt là chuông đồng cao 1,4m, đường kính
miệng 0,7m, đúc năm Tự Đức thứ tư ghi công đức tu bổ đình; một chuông đồng khác
đúc năm Thành Thái thứ 2 cao 1,2m, đường kính miệng 0,6m; một ban thờ bằng gỗ
dài 2,8m, cao 1,3m, được chạm rồng đuổi nhau ở riềm, rồng có râu tóc hình đao lửa;
một bộ đỉnh đồng thời Nguyễn, trên nắp đỉnh đúc hình trúc hoa long; một bát
hương bằng sứ thời Lê cao 2,5m, đường kính miệng 0,22m; hai cỗ ngai vàng và bài
vị sơn son thiếp vàng; ngai có chạm rồng ở tay ngai và hoa ở thân ngai và bài vị
sơn son thiếp vàng; ba đôi câu đối và hai bức đại tự; một tượng lính gác cao
2,1m; hai voi đá và một bức chạm thời Lê.
Nhân dân xã Ngọc Thanh, nhất là người dân sở tại Thanh Cù rất
tự hào về ngôi đình này. Còn truyền lại từ nhiều thế hệ những giai thoại về tên
làng và sự linh thiêng của thế đất. Thanh Cù là gò đất cao, hội tụ được những đức
tính ưu việt: một cuộc sống thanh cao, một môi trường thanh khiết. Đình làng
Thanh Cù được Nhà nước công nhận “Di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia”
theo nghị quyết số 68 của Bộ Văn hoá Thông tin cấp ngày 29/1/1993
10.CHÙA PHƯƠNG TÒNG
Chùa có tên chữ là Tam Cương Tự, nhưng thường được gọi là
chùa Phương Tòng hoặc nôm na là chùa Phương, thuộc xã Hùng An
Theo lời các vị cao tuổi kể lại thì xưa kia, khu đất này rất
trũng nhưng lại nổi lên 3 gò đất cao. Cho đó là điềm lành, một sự mách bảo
thiêng liêng từ tiềm thức nên bà con mới dựng lên ngôi chùa để thờ “Thiên, Địa,
Nhân”. Còn sự duy danh định nghĩa được bà con nhắc đến thì Phương Tòng là đất
biểu tượng của tinh thần cao thượng, ngay thẳng, gan góc trước gió bão như cây
tùng cây bách.
Chùa được xây dựng vào thời Lê Trung Hưng trên khu đất rộng
phía Tây của làng, sát chân đê, cổng chùa và Tam Quan hướng thẳng ra sống Hồng
gió lộng quan năm. Tuy chùa được xây dựng kiên cố, bề thế nhưng qua thời gian
dài với nhiều bão gió lụt lội, giặc dã nên đã bị xuống cấp nhiều. Cuối năm
1934, bà con địa phương góp công của xây dựng lại với quy mô ngày nay.
Như mọi ngôi chùa khác trên đất nước ta, chùa Phương Tòng là
nơi thờ Phật, giảng thuyết Phật học, quảng bá mở rộng đạo Phật, hướng con người
vào điều lành, điều thiện, tránh xa điều ác. Chùa chẳng những đẹp về cảnh sắc
thiên nhiên, về sự mộ đạo của Phật tử, là tuyệt đại đa số cư dân địa phương, mà
còn là một cơ sở của tổ chức cách mạng có giá trị lịch sử.
Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, hai chiến sĩ cách mạng
là Chu Văn Tập và Lương Hiền từ hoạt động ở phía tây nam Hưng Yên đã chuyển địa
bàn hoạt động lên chùa Phương Tòng- Hùng An- Kim Động. Hai ông đã chọn nơi hoạt
động đầu tiên vào gia đình bà Thứ Thoả- một người sớm được hai ông giác ngộ
cách mạng.
Sau đó, để đảm bảo hơn cho công tác hoạt động cách mạng, hai
ông đã chon một nơi vừa kín đáo vừa tĩnh lặng, đó là chùa Phương với sự giúp đõ
của vị sư trụ trì yêu nước là sư Dưỡng. Hai ông đã dựa vào chùa để hoạt động,
gây ảnh hưởng cách mạng rộng rãi ra các vùng xung quanh. Được cơ sở bảo vệ chu
đáo, Chu Văn Tập và Lương Hiền sau này đã trở thành cán bộ chủ chốt của chính
quyền cách mạng.
Năm 1946 cuộc kháng chiến bùng nổ, chùa Phương Tòng lại được
chọn làm cơ sở hoạt động an toàn của Đảng bộ huyện và tỉnh. Tại đây, đồng chí
Chủ tịch lâm thời tỉnh Hưng Yên đã triệu tập lớp học quân sự.
Trong thời gian lớp học quân sự diễn ra rại chùa đã được sự
giúp đỡ nhiệt thành của các vị sư trụ trì (sư Dưỡng sau là sư Mùi) và bà vãi
Khánh. Sau đó chùa Phương còn được chọn làm điạ điểm tổ chức Đại hội của chi bộ
xã Hùng An, là nơi đỡ đầu của trung đội du kích Phương Tòng.
Cuối năm 1951, đầu năm 1952, nhà chùa đã đào trong khu nội tự
5 hầm bí mật để đón phân bộ đội tỉnh Hưng Yên về ở tại chùa hỗ trợ cho phong
trào chiến tranh du kích địa phương. Năm 1953, theo yêu cầu của tổ chức, sư Mùi
được điều lên công tác ở vùng Khoái Châu, Hoà thượng Đặng Thanh Khiết về thay.
Cũng năm này, thực dân Pháp đã tiến hành càn quét bao vây chùa.
Trong tình hình khó khăn ấy, vãi Khánh đã ra càn phá, ngăn
bước tiến quân của địch để chiến sĩ ta có đủ thời gian đối phó, nhìn chung
trong quá trình vận động cách mạng cũng như trong kháng chiến, chùa Phương Tòng
luôn là cơ sở vững vàng, tạo điều kện cho mọi hoạt động cách mạng và chiến đấu
chống Pháp của địa phương thắng lợi to lớn.
Từ năm 1968 đến năm 1976, chùa Phương Tòng thường được chọn
làm địa điểm tổ chức các hội nghị do cấp trên triệu tập, trong đó có một hội
nghị quan trọng ủng hộ phong trào ra đường chống đế quốc Mỹ và chính quyền tay
sai của Phật giáo miền Nam. Chùa còn là nơi Viện Đông y Trung ương sơ tán tránh
bom đạn địch, đồng thời phát triển được các hoạt động nghề nghiệp một cách an
toàn v.
Hiện vật được lưu giữ trong di tích chùa Phương Tòng còn khá
nhiều. Trên Tam Quan có một tượng Phật bà toạ sơn cao 1,4m, 1 chuông đồng cao
0,8m đường kính miệng 0,5m, đúc năm Minh Mệnh thứ 31. Tượng đặt trên bệ cao được
tạo dáng rất đẹp. Hai tượng Kim Đồng và Ngọc Nữ cao 0,6m đứng hai bên tượng Phật
bà. Bên trong có 21 pho tượng Phật ở Đại Bái và Thượng Điền.
Các pho tượng này đều làm ở thế ngồi cân đối hài hoà. Hai
khám thờ Đức Ông và Thánh Hiền, xung quanh khám đều có chạm hình hoa dây sơn
màu mận chín; 14 đôi câu đối, 6 bức đại tự, một khánh đồng đúc năm 1937 cao
0,8m, rộng 1,1m.
Tất cả các đồ thờ trên đã làm cho chùa thêm hấp dẫn bởi vẻ đẹo
cổ kính và sự uy linh. Chùa Phương Tòng được Nhà nước xếp hạng Di tích lịch sử
cấp quốc gia theo quyết định công nhận số 74 ngày 2/2/1993 của Bộ Văn hoá Thông
tin.
11.ĐÌNH , CHÙA, MIẾU NGÔ XÁ
Thông Ngô Xá thuộc xã Vĩnh Xá có cả đình, chùa và miếu tạo
thành một cụm di tích kiến trúc nghệ thuật độc đáo. Theo các cụ cao tuổi kể lại
thì Ngô Xá từ rất lâu đã có tiếng vang là vùng đất hợp với cây ngô. Bao giờ ngô
ở đây cũng xanh tốt, hạt mẩy và to, năng suất cao, do vậy mà có tên là làng Ngô
(Ngô Xá). Cả đình, chùa, miếu đều được gọi theo tên làng. Riêng ngôi chùa có
tên chữ là “Ninh Khánh Tự”.
Theo dân gian trong vùng truyền tụng, cả cụm di tích này đều
do thầy địa lý Tả Ao chọn thế đất rồng chầu hổ phục, chỗ cao thoáng gió, ở ngay
đầu làng trước mặt có dòng thông thuỷ gồm cả ao, hồ và sông. Cụm di tích được
xây dựng vào thời Hậu Lê, đến thời Nguyễn được trùng tu lại. Chùa thờ Phật,
đình và miếu đều thờ Tam vị Đại Vương: Đông Thiện Sùng Tín Đại Vương, Đông
Chinh Thiện Môn Đại Vương và Tây Chinh Điạ Phủ Đại Vương. Lễ hội hàng năm được
tổ chức vào các ngày 10/3 và 8/8 âm lịch.
Dân gian truyền lại theo thần tích như sau: Những năm bên
Trung Hoa loạn li, có một người tên là Sùng Quang quê tận Long Hưng bên Tầu chạy
sang cư trú ở xã Phúc Bái, huyện Quốc Oai, phủ Linh Sơn, tỉnh Sơn Tây. Tại Phúc
Bái ông đã làm bạn với bà Nguyệt. Gia đình sống trong đầm ấm hạnh phúc và làm
nghề cắt thuốc chữa bệnh cho nhân dân. Chữa bệnh cho người nghèo khó ông bà
không thu tiền mà còn nuôi ăn. Nhân dân khắp vùng đều ngợi khen vợ chồng ông là
nhân đức. Song hiềm một nỗi vợ choong ông đã cao tuổi rồi mà con cái vẫn chưa
có.
Đến thời gian đất nước ta rơi vào cảnh loạn ly, 12 sứ quân
tranh giành quyền lực gây bao tang tóc cho dân lành. Vợ chộng ông Sùng Quang phải
chạy sang Ngô Xá Trang (tên gọi cỏ của thôn Ngô Xá ngày nay), thuộc phủ Khoái
Châu, làm nhà ở nhờ trong khu chùa Ngô Xá.
Tại đây ông bà vẫn làm nghề bốc thuốc và nông tang làm kế
sinh nhai. Ông bà thường lên chùa lễ Phật cầu tự. Trong một đêm mưa gió bão
bùng bà nằm mơ thấy mình sinh đựơc ba con trai khôi ngô tuấn tú, văn võ tài ba.
Như mộng bá, một thời gián sau bà mang thai và sinh được ba người con trai và đặt
tên con trai là: Trưởng Viết Sùng Công, Thứ Viết Quách Công và Thứ Viết Thiện
Công. Cuộc sống của ông bà bây giờ đã đầm ấm hạnh phúc thực sự.
Thần tích ghi tiếp: Ông bà cho cả ba con theo học một đạo sĩ
nổi tiến thời bấy giờ. Cả ba người đều được bạn bè trong xã kính nể và yêu mến.
Khi ba anh em vào tuổi 18 thì cả cha mẹ đều lâm bệnh tạ thế, ba anh em thương
xót làm lễ an táng cho cha mẹ ngay bên cạnh chùa và lập đàn làm lễ cầu siêu báo
đáp công ơn. Ba anh ẹm phải tảo tần làm ăn và vẫn nhiệt tâm học hành văn võ.
Ba anh em dựng một ngôi quán ở gốc đa đầu làng bán cơm rượu.
Chính nơi quán đó đã trở thành chỗ hội tụ của thanh niên trai tráng và các bậc
anh hào. Cũng thời kỳ này, nội chiến giữa 12 sứ quân kéo dài gây cho dân ta cảnh
nồi da nấu thịt. Đinh Bộ Lĩnh là một trong những sứ quân mạnh và uy tín nhất
đóng đô ở Hoa Lư, đã cho tướng Nguyễn Bậc đem quân đi dẹp loạn. Đến đất Ngô Xá
thì trời đã tốt. Nguyễn Bậc cho quân sĩ nghỉ tại đây, ba anh dem Sùng Công biết
được liền chiêu tập binh sĩ được hơn ba trăm người gồm Phượng Lâu 5, An Tào 10,
An Xá 45, Vĩnh Đồng 45, Dưỡng Phú 51, Cốc Khê Tạ Xá 55, Đào Xá 36 và trang sở tại
55 người, rồi các ông đem quân đến yết kiến tướng Nguyễn Bậc.
Thấy được nhiệt tình của ba anh em họ Sùng, Nguyễn Bậc cùng
họ đoàn kết làm anh em như trong một bọc. Sau đó họ cùng nhau kéo quân về kinh
đôthành Hoa Lư yết kiến vua Đinh.
Dưới sự chỉ huy của ba vị tướng trẻ Sùng Công, quân sĩ đi tới
đâu cũng được nhân dân ủng hộ, quân giặc nghe tiếng phải bỏ giáo quy đầu hàng.
Các đạo quân phiến loạn tan giã một cách nhanh chóng, giang sơn thu về một mối,
dân tộc chấm dứt cảnh chém giết lẫn nhau.
Trong niềm vui và phấn khởi tràn ngập kinh thành Hoa Lư,
Đinh Tiên Hoàng ca ngợi tinh thần chiến đấu dũng cảm của ba quân, ca ngợi trí
thông minh và đức độ của ba anh em Sùng Công. Vua Đinh đã phong tặng Sùng Công
làm Trưởng Án Nội Các, Quách Công làm Kim Thiên Môn Điện, Thiện Công làm Tây
Chính Trấn Ngự Phủ Điện.
Sau khi nhận chức trong triều được 12 năm, ba ông đã dâng biểu
sớ xin triều đình cho về Ngô Xá thăm quê hương và mộ phần cha mẹ, nhà vua cảm
kích đã cho ba ông vàng 55 hốt, áo bào 1 cuộn. Người dân địa phương vô cùng phấn
chấn khi gặp lại ba ông. Trong niềm vui đó, ba ông đã tặng nhân dân Ngô Xá 300
hốt vàng để lập đình miếu, sửa sang lại ngôi chùa.
Qua một thời gian, ba ông đã mất tại xã. Tại ngôi miếu, nhân
dân đã tạc tượng ba ông để tôn thờ. Trên bài vị đặt trong khám trước ban thờ,
tên ba ông vẫn ngời sáng. Ngày sinh của ba ông là 10/3, ngày mất là 9/8. Vào những
ngày này nhân dân gần xa thường đến thắp hương tế lễ, rước kiệu tôn vinh những
tấm gương cao đẹp, đã hiến dâng tất cả sức lực trí tuệ của mình để bảo vệ nền độc
lập dân tộc.
Để bảo lưu đạo lý tốt đẹp của ba ông, các triều đại sau đó đều
phong sắc để nhân dân thờ phụng và học tập. Theo truyền ngôn, thế kỷ XX, khi tiến
quân đi đánh giặc Minh qua đây Thái uý Lê Lợi vào thắp hương, được ba ông báo mộng
phù giúp, Lê Lợi như được tiếp thêm sức mạnh khi vào trận ông đã giành được thắng
lợi lớn.
Phát huy truyền thống đó, trong kháng chiến chống thực dân
Pháp, những di tích này đều là cơ sở che giấu bảo vệ cán bộ, bộ đội góp phần
đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi. Đến nay đất nước đã đổi mới, các di tích được
trở về đúng vị trí là nơi sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng của làng. Trong những
ngày lễ hội, đình chùa, miếu đền, nhân dân tập trung ở di tích này rất đông
vui, hào hứng cùng nhau tiến hành tế lễ, rước kiệu và vui chơi với các hình thức
văn hóa thể thao sinh động.
Các hiện vật trong cụm di tích hiện còn: hai kiệu bát cống,
hai kiệu long đình sơn son thiếp vàng; một bát hương sứ cao 0,38m, đường kính
miệng rộng 0,6m năm Bảo Đại thứ 5; một chuông đồng cao 0,85m đường kính miệng rộng
0,42m, một bộ bát bửu, một bộ long đao 8 chiếc; bốn cây đèn lồng và bốn cây đèn
gỗ; 6 cỗ ngai, ba ở đình, ba ở miếu đều sơn son thiếp vàng; 16 pho tượng phật ở
chùa, 3 pho tượng thần ở miếu; một cầu đá thời Lê gồm 6 tấm đá rộng 0,45m dài
1,05m; 3 bàn thờ gỗ sơn son với riềm chạm dây hoa cỡ 1,4 × 0,6m; 16 cột đá cỡ
2,2 × 0,25; 13 đạo sắc phong thời Lê và thời Nguyễn; một giá gương gỗ sơn son
thiếp vàng chạm long vân, 8 đại tự sơn son thiếp vàng và 4 đôi câu đối rất cổ
kính. Cụm đình, chùa, miếu Ngô Xá được Nhà nước xếp hạng Di tích kiến trúc nghệ
thuật cấp quốc gia theo Quyết định số 634 ngày 11/5/1993 của Bộ Văn hoá Thông
tin.
12.ĐÌNH BỒNG CHÂU
Đình được gọi tên theo thông Bồng Châu, xã Phú Cường. Đình
thờ 15 vị đẳng thần thời Hùng Vương và Hai Bà Trưng. Lễ hội được mở tại đình
vào các ngày mùng 10/1,/13/3 và 10/11 âm lịch. Đình kiến trúc theo kiểu chữ
Công trên khu đất hẹp cao ráo thoáng mát giữa một bãi sông Hồng rất thuận tiện
cho thuyền bè qua lại.
Đầu tiên, đình được xây dựng ở giữa làng. Về sau do biến động
về thiên nhiên, hàng năm nước lũ sông Hồng dâng cao cuốn lở đất nên đình được
chuyển vào cuối làng giáp đê bối. Mặt tiền của đình quay về phía tây nam giáp
sông Hồng, phía tây áp sát với khu dân cư, phía đông giáp đồng ruộng và thôn Kệ
Châu 1, phía bắc là đồng ruộng. Theo truyền thuyết, đình Bồng Châu được xây dựng
khá sớm. Theo sắc chỉ thời Tiền Lê, triều đình giao cho Thất Gia Trại lập miếu
điện thờ phụng.
Cũng như những ngôi đình ở các xã, đình Bồng Châu vừa được
coi là trụ sở để dân hội họp, bàn việc làng vừa là nơi thờ thành Hoàng Làng.
Theo thần phả, Đình Bồng Chân thờ 15 vị Đẳng thần có công với nước với dân, được
nhận sắc phong của triều đình; tuy nhiên, thần phả lưu lại chỉ thấy ói quê
quán, ngày sinh, ngày mất, chức vụ của 6 trong số 15 vị đó.
Thần tích chép rằng: Bà Trần Hồng Nương, quê tại trang An
Thái, huyện Thiên Bản, phủ Nghĩa Hưng, sinh được hai người con trai tên là Phổ
Hộ và Linh Lôi. Năm 40 tuổi, nhà Hán đem quân sang xâm lược nước ta, đứng trước
tình hình đất nước có giặc ngoại xâm, Hai Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa, ban hành
chiếu chỉ kêu gọi nhân dân đứng lên chống giặc xâm lược nhà Hán: “Thư Châu huyện,
mộ nữ văn võ khí tài anh hùng khả dĩ cự chỉ. Nam tướng nam binh, nữ tướng nữ
binh, dẫn sai ứng tuyển dĩ thụ kì quan tước”.
Nghe được chiếu dụ, ba mẹ con bà bàn nhau ứng tuyển đội
nghĩa quân của Hai Bà Trưng. Bà Hồng Nương tuy tuổi đã cao nhưng còn khỏe mạnh.
Bà tự mình vấn tóc lên vành khăn giả làm trang nam tử,cùng hai con trai đi vận
động mộ quân. Chỉ một thời gian ngắn mẹ con bà vận động được trên hai nghìn người,
tổ chức rèn luyện võ nghệ, giáo dục mọi người đồng tâm phù quốc.
Sau đó mẹ con bà Hồng Nương dẫn đội quân của mình tới doanh
trại của Hai Bà Trưng tại Hát Môn (Sơn Tây- Hà Nội ngày nay). Hai Bà Trưng
phong cho hai ông Phổ Hộ và Linh Lôi chức Đô Chỉ Huy Sứ Tả Hữu Tướng Quân,
phong cho bà Hồng Nương chức Nội Thị Phu Nhân, giữ bà lại bản doanh để chăm lo
việc nước.
Sau khi sắp xếp lại quân ngũ, bà Trưng giao cho hai ông đặc
trách đội thuyền binh tuần tiễu đề phòng quân giặc đánh lại sau lưng. Hai ông cầm
quân lên đường. Tới địa phận Khoái Châu – Kim Động gặp một bến có bãi đất bồi rộng
(nay là bãi Bồng Châu), thấy thế đất đẹp, địa hình thuận lợi cho việc đóng
quân, hai ông cùng quân sĩ tuyển mộ thêm người tài, lập doanh trại tại chỗ, vừa
canh tác vừa rèn luyện gươm đao. Sau khi giúp cho dân lập trú, cắt cử người cai
quản hương thôi, hai ông hồi Đô theo lệnh của Hai Bà Trưng để cùng tướng lĩnh
bàn kế sách tấn công, tiến đánh doanh trại Tô Định.
Cuộc đại chiến đã diễn ra. Quân của Hai Bà Trưng đã đánh tan
quân giặc nhà Hán, chém đầu tướng giặc, giải phóng đất nước. Đây là thời kì độc
lập đầu tiên của nước nhà. Hai Bà Trưng lên làm vua hiệu là Trưng Nữ Vương. Sau
khi lên ngôi ổn định triều chính, hai bà mở tiệc đại khai khánh hạ, khao thưởng
ba quân theo đẳng cấp, đồng thời ra chiếu ban cho mẹ con bà Hồng Nương phần thực
ấp tại quê cũ Nam Định đạo. Đang độ mùa đông, ba mẹ con bà đi trên một chiếc
thuyền rồng dọc bờ biển để quan sát địa hình điền ấp. Đi đến núi An Từ, đột
nhiên trời nổi lên một trận giông tố, mưa như trút nước, một dải mây vàng từ
trên cao giáng vào sa giá. Nhân gian cho rằng ba mẹ con bà đã đồng bộ tòng vân
về cõi trời. Từ đó nhân dân địa phương lập đền thờ.
Đến triều Lê Đại Hành năm Thiện Phúc, ba mẹ con đều được thụ
phong sắc Thần vì đã lập nhiều công lớn. Các sắc phong đều có nội dung sau:
Thông minh khôn khéo, một lòng phò Vua giúp nước, bảo toàn bờ cõi. Khi ra trận
tiến công vũ bão, chiến thắng oanh liệt, dũng mãnh phô trương thanh thế khiến
quân thù khiếp vía. Các triều đại sau này đều có sắc phong ghi công ba vị Đaị
Vương Thượng Đẳng Thần, ban hành các quy chế nghi thức trong các ngày sinh, hoá
và lễ hội. Hiện nay, tại đình Bồng Châu còn giữ được 15 sắc phong của các triều
đại trước.
Những năm thực dân Pháp cho quân chiếm đóng phía nam tỉnh
Hưng Yên là giai đoạn khó khăn nhất của nhân dân Kim Động. Địch càn quét, bắn
phá rất dã man. Đình Bồng Châu là nơi được cấp trên chọ đặt trạm giao liên giữ
đường dây liên lạc giữa hai Quân khu Tả và Hữu ngạn sông Hồng. Đây là nơi đón bộ
đội, vượt sông mỗi khi mở chiến dịch; cũng là nơi chuyển vũ khí, thương binh
ta, tù binh địch ra khu an toàn.
Từ năm 1951 đến 1954, đình Bồng Châu là nơi thường xuyên có
các đơn vị thuộc Trung đoàn chủ lực 42 đến đóng quân mà không bị lộ bí mật và
được nhân dân một lòng che chở, giúp đỡ.
Một vinh dự khác được ghi nhận là 7/11/1963, Thủ tướng Phạm
Văn Đồng đã về Bồng Châu thăm hỏi tình hình làm thuỷ lợi và đời sống của bà con
ngay tại đình làng. Trong kí ức của nhân dân Bồng Châu, xã Phú Cường, nhất là
các cụ có mặt tại buổi Thủ tướng Phạm Văn Đồng về thăm, còn in đậm hình ảnh
thân thương của lãnh tụ đối với đồng bào đồng chí ở vũng bãi xa khuất này.
Tại đình Bồng Châu còn lưu giữ nhiều hiện vật quý: một kiệu
bát cống sơn son thiếp vàng thời Hậu Lê, đòn kiệu đều chạm trổ đầu rồng, thân
kiệu chạm tổ cách điệu hoa văn hình sóng cuộn; hai cỗ kiệu trung cũng chạm đường
nét hoa văn cầu kì; tám cỗ long ngai chạm trổ tinh vi sơn son thiếp vàng: 4 cỗ
thuộc thời Lê, 4 cỗ thuộc thời Nguyễn; 1 hạc gỗ thời Lê còn giữ được nguyên vẹn
đến thời nay; 1 quả chuông đúc năm Bính Thìn 1976 cao 1,5m, đường kính miệng
0,8m, nặng trên 1 tấn; 5 bộ đỉnh, đài nến bằng đồng; 1 bộ quạt 5 chiếc gồm 1 quạt
cái to 10 nan xoè rộng và 4 quạt ngà voi, mỗi quạt được tạo dáng bằng giấy nén
trên nan ngà voi nặng 2kg một quạt. Ngoài ra còn một số đồ tế tự bằng gỗ quý
khác.
Đình Bồng Châu được Nhà nước xếp hạng Di tích lịch sử và nghệ
thuật cấp quốc gia theo Quyết định số 225 ngày 5/2/1994 của Bộ Văn hoá Thông
tin.
13. MIẾU MÁI VÀ CHÙA DƯỠNG PHÚ
Dưỡng Phú là một thôn lớn của xã Chính Nghĩa. Thôn được cả
vùng biết đến bởi hai nét đặc trưng nổi bật là: cơ sở cách mạng với những chiến
sĩ cộng sản kiên cường có nhiều công lớn đối với sự nghiệp xây dựng tổ chức từ
khi còn trứng nước đến ngày giành được chính quyền cách mạng và có một cụm di
tích lịch sử độc đáo gồm miến Mái và ngôi chùa cổ kính.
Trước hết là nói về miếu Mái: Thôn Dưỡng Phú từ xa xưa có
tên chữ là Dưỡng Phúc, tê nôm là làng Phận. Theo truyền thuyết làng Phận là vùng đất cổ, cây mọc rậm như rừng
hoang, trong đó có một loại cây lạ mọc nhiều nhất, bà con quen gọi là cây mái.
Trong rừng đầm lầy và nhiều thú dữ, đây là mảnh đất thiêng có rắn thần, có một
ngôi mộ bà Chúa Mái và một ngôi miếu xây cạnh mộ được gọi là miếu Mái. Miếu được
xây trên gò cao, cũng được gọi tên là gò Mái, có thế đất đẹp, cao ráo, ba mặt
đông, tây, nam giáp với khu dân cư, phía bắc là ruộng cấy. Không xác định được
niên đại xây dựng miếu, chỉ biết rõ hai lần tu sửa, lần thứ nhất năm Mậu Thìn
1908 và lần thứ hai 1942.
Theo Vương phả Cung phi họ Nguyễn, soạn thời Hồng Đức năm thứ
9 (1476) chuyện xưa chp lại như sau: Tại xã Dưỡng Phúc có một gia đình, chồng
là Nguyễn Công Minh gốc người sở tại lấy vợ là Trương Thị Ngoan quê tận Dưỡng
Hoà, huyện Duy Tiên, phủ Lý Nhân bên kia sông Nhị Hà. Ông bà sinh được hai người
con trai khôi ngô tuấn tú, giỏi giang mọi việc được bà con thôn ấp ngợi khen.
Ông bà chỉ cầu sao Trời Phật cho sinh thêm một mụn con gái.
Năm Bính Dậu 1266 vào ngày mồng 7/3, bà sinh ra được một cô
con gái như cầu mong của hai vợ chồng. Cô gái sinh ra đã thấy khác người: mặt
sáng như gương, mắt phượng mày ngài, da hồng như thoa phấn. Cha mẹ đặt tên là
Nguyễn Thị La. Đến năm 13 tuổi, cô gái thông minh sáng láng tuyệt vời, thân
hình rạng rỡ như hoa như nguyệt, cả một vùng thầm khen là bậc thánh nữ giáng trần.
Chỉ qua mấy năm đèn sách mà cô gái đã lầu thông kinh truyện,
hiểu rộng biết nhiều. Đến năm cô 14 tuổi, chẳng may cha mẹ đều quy tiên. Nàng bị
một kẻ họ Đinh tên Hoàng mang gia nhân đến cưỡng ép làm vợ. Nàng không chịu
đành bỏ quê cha mà tìm về nương náu nơi quê mẹ ở Dưỡng Hoà. Về nơi ở mới, được
sự đùm bọc của gia tộc họ Trương. Nguyễn Thị La càng mê mải chuyện cứu giúp người
khốn khổ bằng nghề bốc thuốc.
Cả một vùng đất Dưỡng Hoà truyền nhau những lời tốt lành,
phúc đức của cô gái và suy tụng nàng là Tiên Nương hạ thế, Trong một ngày hội
làng, các bô lão hô hào lấy một số mẫu công thổ dâng tặng Tiên Nương. Khi Tiên
Nương về trời, số mẫu công thổ này sẽ dùng vào việc dựng bia, hàng năm thờ
cúng.
Tiên Nương bái tạ, lòng xao động khôn cùng, bèn thưa xin
hoàn lại dân làng và tặng thêm 500 quan tiền để bà con sửa sang tế lễ. Tiên
Nương ứng khẩu đọc thơ, thơ rằng: “Dưỡng Hoà đất mẹ buổi phong vân/ Tích đức
lưu truyền để lại dân/ Vận cuộc đổi thay tình chẳng đổi/ Hẹn cùng non nước vạn
ngàn xuân”.
Được sống dăm năm trong sự an bình quê mẹ, Tiên Nương bỗng lại
gặp sự biến. nghịch tử họ Đinh tên Hoằng cầm đầu một toán quân ô hợp hàng ngàn
tên đến đàn áp trả thù anh em nhà Nguyễn Công Minh rồi kéo về Dưỡng Hoà hòng bắt
bằng được Tiên Nương Nguyễn Thị La.
Trước đàn hổ báo hung hãn điên cuồng, Tiên Nương không biết
chống đỡ như thế nào, đành một lần nữa bỏ trốn không để lại dấu tích.
Trôi dạt tới Tràng An, Tiên Nương trọ ở phường Cửa Tây mở một
quán trà trầu vỏ. Vào một ngày đẹp trời, vua Trần An Tông ra chơi gác Lầu Hương
ở phía tây kinh thành. Trong một cuộc dạo chơi quanh cung cấm, tới cửa phía Tây
Nhà Vua chợt thấy một quán nước mà chủ quán là một cô gái có sắc đẹp lộng lẫy.
Nhà Vua bèn cho triệu cô chủ quán tới để hầu chuyện. Năm ấy Tiên Nương vừa tròn 24
tuổi, tính đến tuổi tiên duyên kỳ ngộ này tại Tràng An. Vua sai xe loan rước
nàng vào Nội phủ trong Điện Tây Các rồi lập làm cung phi thứ hai.
Chỉ ít lâu sau, thấy giang sơn còn chưa yên, thần dân đang
phải chịu khổ cực vì ngoại bang, nàng bèn tâu lên Vua cho nàng được đi đánh giặc.
Trước sự nài nỉ được đi đánh giặc, lại đối đáp rất trôi chảy những câu hỏi về võ
ngệ của Tiên Nương, Vua đành ưng thuận để nàng giả làm nam ra trận.
Sau khi đánh giặc ở Xích Đằng Châu, Cung phi cho lệnh lập
doanh trại luyện quân và dựng các phòng tuyến chặn địch. Còn Cung phi trực tiếp
mạng một đạo quân tiến thẳng về quê nội Dưỡng Phúc. Hôm đó là ngày mồng 10
tháng chạp, bà con nô nức kéo đến chào đón nữ tướng và mở hội ăn mừng.
Bà làm lễ bái yết tổ tiên và hân hoan trò chuyện với dân
làng. Gĩa tiệc khao quân, Cung phi ra lệnh chiêu binh, tuyển mộ trai tráng trong
làng, trong đó có các thân nhân trong họ Nguyễn vào quân ngũ; lập một hành cung
bên bến Mái nơi có thế đất Phượng Hoàng lấy nước nổi tiếng thiêng liêng từ bao
đời; dựng Từ Đường làm nơi dân làng cúng lễ hàng năm.
Xong việc lớn, Cung phi trở về triều. Sau đó Cung phi sinh hạ
được hai trai và một nữ. Hai hoàng tử đều sớm thành đạt giữ tới chức Nôị Các Ngự
Sử Đài, vinh hiển giàu sang.
Năm Cung phi 42 tuổi, bà xin phép về thăm Từ Đường. Được nhà
vua ưng thuận, bà lên xe loan xuống thuyền rồng, theo đường thuỷ sông Nhị Hà rồi
rẽ sang sông nhánh về quê Dưỡng phúc. Đúng ngọ ngày 11/6/1307 thuyền rồng vừa
đưa bà vào bến Mái thì sấm chớp nổi lên rung trời, thuyền bà theo ánh chớp biến
vào cõi xa xăm, chỉ còn lại dấu vết là một gò cao từ đất bồi lên hình thanh f một
ngôi mộ lớn. Từ đó có tên là gò Mái. Được tin này, Vua vô cùng thương xót. Ngài
truyền cho Dưỡng Phúc sửa sang đình và miếu làm nơi thờ cúng tê tự bà. Nhà Vua
kí sắc phong người con gái họ Nguyễn tên La là “Vương Phi Công Chúa”, dân Dưỡng
Phúc hương hoa tưởng nhớ vào những ngày Công chúa hạ giới môngf 7/3 và ngày bà
trở về cõi tiên 11/6 hàng năm.
Cuốn thần phả soạn vào thời Hồng Đức năm thứ 9 được đặt ở Miếu
thờ có đoạn ghi: “Ở xứ gò Mái cạnh Nhị Hà có một ngôi mộ của Cung phi thứ hai
vua Trần Anh Tông tên là Nguyễn Thị La, quê cha ở Dưỡng Phúc, quê mẹ ở Dưỡng
Hoà, sinh năm 1266 và mất năm 1307 đều tại quê cha”. Trong miếu vẫn còn quả
chuông có dòng chữ mang nội dung như trên. Một số hiện vật còn lại trên phần mộ
như gạch ngói tren tháp, tiền đồng đều là sản phẩm đặc trưng thời Lý – Trần. Tất
cả tư liệu trên là cơ sở để xác minh thần phả, văn bia nói về công tích, lai lịch
của Tiên Nương Cung phi Nguyễn Thị La là có độ chính xác tin cậy.
Ngôi mộ nằm trên gò nổi thuộc cánh đồng Mái rộng 4-5 ha với
hình dáng bề thế kiến trúc khác hẳn ngôi mộ cùng thời. Ngôi mộ đã được Viện Khảo
cổ học khai quật để nghiên cứu. Tạp chí Khảo cổ học số ra tháng 1 năm 1997 có
nhận xét “Ngôi mộ thời Trần ở Dưỡng Phúc, Hải Hưng (nay là Dưỡng Phứ, xã Chính
Nghĩa, Huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên) là một ngôi mộ rất đáng chú ý nghiên cứu”.
Về chùa Dưỡng Phú: Chùa Dưỡng Phú có tên chữ là Khám Vân Tự.
Bà con thường gọi nôm na là chùa Phận hay chùa Dưỡng Phú. Chùa kiến trúc kiểu
chữ Công. Chưa xác định được niên đại xây dựng nhưng có ghi những lần trùng tu
vào thời nhà Nguyễn. Lần tu sửa gần đây nhất là năm 1942 do nhân dân công đức.
Chùa Dưỡng Phú là nơi bà con thờ Phật, tu tâm tích thiện, đồng
thời là nơi thờ Tiên nương- Cung phi Nguyễn Thị La. Một nét đặc sắc khác của
chùa là chùa được coi là dấu son trên sơ đồ xây dựng cơ sở cách mạng của huyện
Kim Đông. Từ năm 1942- 1943, các đồng chí cán bộ cao cấp của Đảng đã đặt chân
phát triển phong trào cứu quốc ra các vùng lân cận. Nhiều gia đình nuôi cán bộ
trong nhà, đào hầm cất giấu vũ khí và tài liệu mật. Ngay dưới bệ tượng của nhà
chùa cũng đào hầm bí mật để bảo đảm an toàn cho cán bộ và tài liệu cách mạng.
Các hiện vật còn lưu giữ tại cụm di tích Dưỡng Phú cho đến
ngày nay, có thể kể như: 1 quả chuông, 1 cỗ khám, 1 choé và 3 bát hương thời
Nguyễn; lăng mộ có tháp đất nung và gạch ngói thời Trần; 1 cuốn thần phả, sắc
phong; 1 bệ đá thời Trần ghép bằng những khối đá lớn; 1 quả chuông đúc năm Thiệu
Trị thứ hai; 13 pho tượng thời Lê- Nguyễn và một số đồ thờ có giá trị khác.
Miếu Mái và chùa Dưỡng Phú được Nhà nước xếp hạng cụm Di
tích lịch sử và kiến trúc cấp quốc gia theo Quyết định số 295 ngày 12/2/1994 của
Bộ Văn hoá Thông tin.
14. ĐÌNH THỔ CẦU
Đình Thổ Cầu nằm ở trung tâm thôn Thổ Cầu, xã Nghĩa Dân. Ba
mặt khuôn viên đình giáp ao hồ, phía sau là đường, đó là địa thế đẹp nhất của
làng.
Đình được xây dựng để thờ Trần Hưng Đạo, một vị tướng tài ba
thời Trần có công trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông xâm lược. Ông được
nhân dân đất Việt tôn là Thánh, rất nhiều nơi trên đất nước đã xây dựng đền thờ
Ông.
Tại đình còn diễn ra nhiều sự kiện lịch sử của địa phương.
Năm 1945, đình Thổ Cầu là địa điểm bộ đội tập trung đi giành chính quyền ở huyện.
Năm 1950, đây là nơi ghi dấu tội ác của thực dân Pháp tàn sát 2 chiến sĩ du
kích. Đặc biệt, nơi đây ngày 16.9.1961, bác Hồ đã về thăm và căn dặn cán bộ,
nhân dân điạ phương phải gắng sức hơn nữa trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ
quốc.
Đình Thổ Cầu được xây dựng thời Lê, trùng tu, tu sửa thời
Nguyễn niên hiêu Thành Thái thứ 3 (1981) với kiến trúc chữ Đinh gồm 05 gian đại
bái, 03 gian Hậu Cung. Đình còn lưu giữ nhiều mảng chạm khắc đẹp mang phong
cách kiến trúc thời Nguyễn. Đặc biệt là các bức cốn giang trung tâm tòa đại bái
chạm tứ linh đan xen tứ quý như: rồng, phượng, rùa, thông, cúc, trúc, sen, đường
nét chạm khoẻ, cân đối. Các bẩy hiên chạm đề tài tứ bình (thông, mai, cúc,
trúc), chữ thọ…
Hiện nay tại đình lưu giữ một số tế tự có giá trị như: hệ thống
hoành phi, đại tự, câu đối, bát hương sứ…
Từ những giá trị trên, đình Thổ Cầu được Nhà nước xếp hạng
vào loại hình di tích: “Lịch sử và kiến trúc nghệ thuật” năm 1995.
15. ĐÌNH AN XÁ
Đình An Xá xây dựng theo hướng Tây trên thế đất “con quy” nằm
ngay giữa làng An Xá, xã Toàn Thắng.
Đình thờ An Công, Dực Công là tướng của vua Hùng thứ 18, hai
vị có công đánh giặc cứu nước đem lại cuộc sống thanh bình cho nhân dân. Sau
khi mất, hai ngài đều hiển ứng giúp nước cứu dân, được nhân dân tôn làm Thành
Hoàng làng ngàn năm thờ phụng.
Đình được khởi công xây dựng từ xa xưa, trải qua các triều đại
ngôi đình đều được trùng tu. Kiến trúc hiện nay được giữ nguyên sau lần trùng
tu lớn vào năm Bảo Đại Tân Tỵu (1941), kết cấu kiểu “nội công ngoại Quốc” với
các hạng mục tương đối đồng bộ gồm: Đại bái, ống muống và hậu cung, hai bên là
hai dãy dải vũ. Các mảng chạm khắc được tập trung chủ yếu ở toà đại bái với các
đề tài tứ linh, tứ quý rất công phu và tỉ mỉ.
Đình còn lưu giữ được nhiều hiện vật, cổ vật có giá trị
như:5 đạo sắc phong các thời Lê, Nguyễn, choé sứ, nhang án, khám thờ.
Đình An Xá được Nhà nước xếp hạng di tích: “Lịch sử văn hoá
và kiến trúc nghệ thuật” cấp quốc gia năm 1994.