Những di tích lịch sử thờ phụng Tam thánh Tản Viên ở Yên Bái - phần 1 Những di tích lịch sử thờ phụng Tam thánh Tản Viên ở Yên Bái - phần 1 Tỉnh Yên Bái có rất nhiều các địa điểm thờ phụng những vị anh hùng dân tộc đã vì dân vì nước thời Kỳ Hùng Vương. Những vị nhân thần được thờ phụng nhiều trong các đình, đền là Tam Thánh Tản Viên cùng những anh hùng dân tộc, đã có nhiều công lao bảo vệ Tổ Quốc, giúp dân khai hoang, trồng trọt, xây dựng quê hương. Cụm di tích lịch sử đình, đền và chùa Văn Tiến, xã Văn Tiến, thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái Đình Văn Tiến Cuối thế kỷ XIX, tại các tỉnh miền xuôi do dân số đông, diện tích đất canh tác chật hẹp, cộng với chính sách chiêu mộ lao động vào làm việc trong các đồn điền chè, cà phê của Pháp nên một bộ phận cư dân các tỉnh miền xuôi và trung du đã mang theo gia đình lên Văn Tiến khai phá vùng đất mới. Vào thời gian này nơi đây là vùng đất còn hoang vu, dân cư thưa thớt, nhân dân chủ yếu sống bằng nghề nông, cuộc sống ban đầu gặp rất nhiều khó khăn, kinh tế chủ yếu là trồng cấy các loại cây nông nghiệp và chăn nuôi, mùa vụ phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên nên họ luôn có niềm tin vào các đấng siêu nhiên ngự trị tại mỗi vùng đất như thần mây, thần mưa, thần sấm, thần chớp… Vì vậy, từ thực tế cuộc sống và nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng thờ các vị thần và tưởng nhớ người đã có công khai phá lập làng nhân dân Văn Tiến đã đóng góp xây dựng ngôi đình làm nơi sinh hoạt văn hóa - tín ngưỡng, thờ Thành Hoàng làng và các vị thần ngự trị tại đây để thể hiện lòng thành kính, cầu mong có một cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Đền Văn Tiến Để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của mình, sau khi xây dựng đình, nhân dân tiếp tục xây dựng đền Văn Tiến để thờ mẫu và các vị thánh. Với quan niệm "vạn vật hữu linh", nhân dân cho rằng mọi vật đều có linh hồn, trong sự bế tắc vào việc giải thích nguồn gốc của vũ trụ, từ các hiện tượng tự nhiên như dịch bệnh, hạn hán… người dân cần một chỗ dựa về tinh thần để yên tâm lao động sản xuất nên đã tin tưởng vào thần linh và các vị thánh. Đồng thời lập đền thờ thần thánh với mong muốn được phù hộ cho mưa thuận gió hòa, sức khỏe dồi dào. Chùa Văn Tiến Phật giáo du nhập vào Việt Nam khoảng thế kỷ VII sau Công Nguyên, có sức lan tỏa mạnh mẽ, dễ thích nghi và đáp ứng nhu cầu tâm linh của các tầng lớp trong xã hội. Từ khi du nhập, tư tưởng Phật giáo đã thấm sâu vào tư tưởng con người nhất là từ thời Lý - Trần khi phật giáo trở thành quốc giáo ở nước ta. Cuối thế kỷ XIX, dưới sự áp bức của các thế lực thực dân và phong kiến làm cho đời sống nhân dân vô cùng cực khổ. Vốn là cư dân nông nghiệp sống lâu đời ở đồng bằng Bắc Bộ, Phật giáo đã thấm sâu vào làng xã, vào tư tưởng con người, cùng với ảnh hưởng Phật giáo du nhập vào Yên Bái từ thời Lý - Trần, nên sau khi lên vùng đất Văn Tiến sinh sống, người dân đã xây dựng ngôi chùa lấy tên gắn với địa danh Văn Tiến. Từ khi chùa Văn Tiến được xây dựng đã trở thành nơi sinh hoạt tín ngưỡng - tôn giáo, thu hút được đông đảo phật tử trong và ngoài vùng đến tụng kinh niệm phật, cầu mong sự che chở của thần linh và phật. Những nhân thần được thờ tự tại đình Văn Tiến: Đình Văn Tiến thờ Thành Hoàng có tên Trịnh Nguyên (tên húy Cụ Ngô), theo các cụ cao niên trong xã kể lại, ông là một vị tướng của triều đình, được cử đi đánh dẹp giặc phương Bắc. Sau khi chiến thắng quân xâm lược, nhận thấy vùng đất bằng phẳng màu mỡ, có địa thế thuận lợi có thể sinh sống lâu dài nên ông đưa dân đến, khai phá mở mang vùng đất Văn Tiến. Khi ông mất nhân dân đã suy tôn ông là Thành Hoàng làng. Ngoài thờ Thành Hoàng Trịnh Nguyên, với văn hóa đình làng truyền thống của nhân dân miền xuôi, đình Văn Tiến còn thờ tam vị đẳng thần bao gồm: Tản Viên Sơn Thánh, Quý Minh Đại Vương, Cao Sơn Đại Vương. Theo truyền thuyết dân gian ba vị đại vương trên là ba anh em, cùng là tướng thời Hùng Duệ Vương (Hùng Vương thứ 18) đã có công trấn ải Sơn Nam bảo vệ đất nước. Sau khi giúp vua Hùng Duệ Vương đánh thắng quân xâm lược, mỗi vị thần ngự ở một ngọn núi (bên trái của dãy Ba Vì là thần Cao Sơn; Tản Viên Sơn Thánh đứng giữa, bên phải là Quý Minh Đại Vương). Các vị đại vương trên được nhân dân khắp nơi thờ phụng, trở thành Thành Hoàng làng và nổi tiếng là vị thần linh ứng khi nhân dân cầu đảo. Nhân vật thờ tự và bài trí tượng thờ đền Văn Tiến: Hậu cung là nơi thâm nghiêm đặt ban thờ Tam Tòa Thánh Mẫu. Tượng ở giữa có sắc phục màu đỏ là tượng bà chúa Liễu Hạnh hay còn gọi là Mẫu đệ nhất Thượng Thiên (Mẫu nghi thiên hạ). Tượng bên phải có sắc phục màu xanh là Mẫu đệ nhị Thượng Ngàn (cai quản rừng xanh). Tượng bên trái có sắc phục màu trắng là Mẫu đệ tam Thoải Phủ (cai quản miền sông nước). Hàng thứ hai là tượng Ngũ Vị Tôn Ông: Đệ nhất Thượng Thiên (áo đỏ tươi); Đệ Nhị Thượng Ngàn giám sát đại vương thượng đẳng tối linh thần (áo xanh); Đệ Tam Thoải Phủ cai bản mệnh thanh đồng (áo trắng); Đệ Tứ Khâm Sai quyền cai tứ phủ (áo vàng); Đệ Ngũ Tuần Tranh - quyền cai quản âm binh nhà trời (áo đỏ thẫm). Hàng thứ ba là tượng Tam vị Quan Hoàng: Ở giữa là ông Hoàng Bảy (áo xanh); Bên phải là tượng ông Hoàng Mười (áo vàng); Bên trái là tượng ông Hoàng Ba (áo trắng). Bên phải gian đại bái là ban thờ bà chúa Sơn Trang. Ban thờ bên trái thờ Đức Thánh Trần và Đệ Nhất Vương Cô, Đệ Nhị Vương Cô. Hệ thống tượng thờ chùa Văn Tiến: Lớp thứ nhất: Trên cùng là tượng Tam Thế Phật gồm ba pho tượng, bên trái là Quá Khứ Thế, ở giữa là Hiện Tại Thế, bên phải là Vị Lai Thế. Tên đầy đủ là Tam Thế Phật (phật quá khứ, hiện tại và tương lai). Lớp thứ hai: Bộ Di Đà Tam Tôn, trong đó phật A Di Đà ở giữa; Quan Thế Âm Bồ Tát ở bên trái; Đại Thế Chí Bồ Tát ở bên phải. Phật A Di Đà thể hiện tính bát đại, tuyên ngôn của đạo Phật là từ tâm và trí tuệ; Quan Thế Âm Bồ Tát: đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả (bốn tính thuộc từ tâm); Đại Thế Chí Bồ Tát: đại hùng, đại lực, đại trí, đại dũng (bốn tính thuộc trí tuệ). A Di Đà là vị phật ở Tây phương cực lạc, có chức năng tiếp dẫn linh hồn nhưng vì ít xuống trần gian nên phải nhờ đến hai vị bồ tát của mình. Lớp thứ 3: Bộ tượng Hoa Nghiêm Tam Thánh, gồm tượng Bồ Tát Thiên Thủ Thiên Nhãn (nghìn tay nghìn mắt) mỗi bàn tay đều có con mắt trí tuệ, trong tay cầm nhiều pháp khí dùng hàng phục ma chướng, những cánh tay cầm kiếm, búa, tràng hoa, châu báu, vải lụa gấm vóc, hoa sen, bánh xe pháp, bình tịnh thủy, chày kim cang…cũng tượng trưng cho mọi ngành nghề trong cuộc sống trên thế gian này. Bồ Tát Thiên Thủ Thiên Nhãn còn có danh hiệu Bồ Tát Chuẩn Đề, qua hình tượng Bồ Tát Thiên Thủ Thiên Nhãn chúng ta cũng có thể thấy được ý nghĩa công đức và phúc đức. Với tư tưởng giải thoát tuyệt đối của đạo Phật, nhận thức tâm lý con người ở thế gian thân, miệng, ý là nguyên nhân tạo những nghiệp thiện hay ác qua nhiều kiếp luân hồi, chỉ có tu hạnh bồ tát mới chuyển đổi được nhân quả. Bên phải là tượng Phổ Hiền Bồ Tát, bên trái là tượng Văn Thù Bồ Tát. Lớp thứ 4: Ở giữa là tượng Ngọc Hoàng, bên phải Nam Tào, bên trái là Bắc Đẩu. Lớp thứ 5: Tòa Cửu Long, tượng này theo điển tích nói khi Đức Thích Ca Mầu Ni mới giáng sinh, có chín con rồng xuống phun nước cho ngài tắm, đoạn ngài đi bẩy bước tay tả chỉ lên trời, tay hữu chỉ xuống đất mà nói rằng: “Thiên thượng, thiên hạ, duy ngã độc tôn. Trên trời, dưới đất, chỉ có ta là quí hơn cả” Bởi vậy tòa Cửu Long làm chín con rồng vây bọc chung quanh và ở trên những đám mây có chư phật chư thiên, nhã nhạc, cờ phướn và Bát Bộ Kim Cương, ở giữa có pho tượng nhỏ, đứng một tay chỉ lên trời và một tay chỉ xuống đất, đó là tượng Bổn Sư Thích Ca Mầu Ni Phật lúc sơ sinh. Các hiện vật trong Di tích Hiện vật tại di tích đền Văn Tiến gồm có: 02 tượng mẫu (cũ); Bộ tượng Tam Tòa Thánh Mẫu; Bộ tượng Ngũ Vị Tôn Ông; Tượng Đức Trần Triều; Tượng Đệ Nhất Vương Cô và Đệ Nhị Vương Cô. Ngoài ra trong đền còn có các hiện vật khác như ống hương, ống hoa, đao, kiếm, khay đồng, chuông đồng… Phong tục lễ hội. Lễ Thượng nguyên: Lễ Thượng nguyên được tổ chức vào ngày rằm tháng giêng. Vào ngày này ai đến chùa đều lễ Phật cầu an cho gia đình, dòng họ, đất nước, cho thiện hạ thái bình, an lạc. Đây cũng là ngày mà Phật tử về chùa lễ Phật, sám hối, phát nguyện, nỗ lực tinh tấn tu tập mong trọn vẹn năm ấy được phúc lành. Lễ Phật Đản: Lễ Phật Đản được tổ chức vào ngày 14/4 - 15/4 (âm lịch). Vào ngày chính lễ nhà chùa cùng các phật tử và bà con nhân dân chuẩn bị các đồ cúng chay như: hoa, quả, chè lam, oản, bánh… là những sản phẩm do chính tay người dân làm ra. Những nguyên liệu như gạo, nước dùng làm bánh đều được lựa chọn và cất giữ tại kho riêng. Gạo phải hạt to, tròn được gặt từ ruộng lúa được chăm sóc với chế độ đặc biệt không bị sâu bệnh. Nước phải là được lấy từ giếng chùa để làm bánh và oản. Trong lễ Phật đản nổi bật lên nghi lễ Tắm Phật. Nước tắm Phật là loại nước thơm (nước thơm được kết hợp từ lá sen và các loại hoa, thảo dược từ thiên nhiên) để tắm tượng. Lễ Vu lan báo hiếu : Rằm tháng Bảy được giới tăng ni phật tử gọi là lễ Vu Lan, là dịp để con cái báo hiếu bậc sinh thành và tổ tiên đã khuất. Theo tín ngưỡng, rằm tháng Bảy cũng là ngày xá tội vong nhân, nhà nhà bày mâm cao cỗ đầy để cúng chúng sinh. Hàng năm, ngày lễ Vu Lan nhắc nhở mỗi người tưởng nhớ công ơn cha mẹ, ở kiếp này và các kiếp trước. Vào ngày này các phật tử cùng bà con dân làng lên chùa với ước vọng cầu siêu mong cho các linh hồn của ông, bà, cha, mẹ được siêu thoát, đây chính là truyền thống uống nước nhớ nguồn của dân tộc Việt Nam và đạo lý tri ân hiếu hạnh với cha mẹ, ông bà, tổ tiên theo lời đức Phật dạy. Tại đình Văn Tiến Lễ hội hàng năm tại lưu giữ nét truyền thống đặc sắc, thu hút được đông đảo quần chúng nhân dân tham gia. Lễ hội diễn ra vào các dịp trong năm (tính theo âm lịch): Mùng 7 tháng giêng tổ chức lễ khai xuân, đây là ngày lễ lớn nhất trong năm. Trong ngày khai xuân, lễ cúng phải có các đồ lễ như chè lam, bánh bỏng, bánh tẻ, bánh mật, cơm lam, hoa chuối bạch, rau gai và rượu. Ngày 15 tháng giêng tổ chức tết Nguyên tiêu. Ngày 25 tháng chạp tổ chức lễ tạ. Tại đền Văn Tiến ngày mùng 7 tháng giêng hàng năm tổ chức lễ giỗ Mẫu. Theo tục lệ, cứ đến ngày này hàng năm nhà đền lại chuẩn bị đồ cúng lễ. Có hai loại mâm cúng là cúng chay và cúng tạp. Mâm cúng chay có những đồ làm từ thực vật, gồm: cơm nếp, cơm tẻ, oản, chè lam, bánh khảo, bánh chuối và 01 chén đựng nước… Mâm cúng tạp gồm thức ăn được chế biến từ thịt động vật và thực vật như thủ lợn, chân giò, thịt, đuôi lợn và rượu, gà, vịt và các loại hoa quả, gạo nếp, gạo tẻ, cơm lam, xôi nếp, rượu, hương, hoa - là những sản vật do chính người dân nơi đây làm ra, dâng lên cúng tế tổ tiên, trời đất và các thần - thánh nhằm kính báo và tạ ơn tổ tiên, trời đất, thần thánh đã che chở, phù hộ cho một năm được mùa, cuộc sống an bình, hạnh phúc. Khi mọi việc chuẩn bị xong, đến giờ đẹp các mâm cúng được bày đặt đúng vị trí, thủ nhang làm lễ cúng tế tạ ơn các vị thánh đã che chở, ban cho dân làng một năm an bình, mùa màng bội thu, diệt trừ cái ác… đồng thời cầu cho một năm mới mưa thuận, gió hòa, vạn vật sinh sôi nảy nở, lúa tốt đầy bồ, mọi người khỏe mạnh… Ngoài ra đền Văn Tiến còn tổ chức các ngày lễ khác trong năm như lễ Mẫu ngày 10 tháng 3 âm lịch; lễ các thánh thần 20 tháng 8; 10 tháng 10 lễ cúng cơm mới. Quyết định công bố Di tích Quyết định số 237/QĐ-UBND ngày 17/02/2016 của Ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái công nhận đình, đền và chùa Văn Tiến, xã Văn Tiến, thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái là Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh. Di tích lịch sử - văn hóa đình Bằng Là (Đình Cả, Đình Tổng), xã Đại Lịch, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái. Sơ lược lịch sử Di tích Di tích đình Bằng Là thuộc xã Đại Lịch, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái. Đình Bằng Là hay còn có tên gọi là Đình Cả, Đình Tổng được ra đời cách đây gần 3 thế kỷ, nơi đây thờ Thành Hoàng Làng tức Cao Sơn Đại vương đệ tam và ông tổ họ Phạm tên là Phạm Đình Yên đã có công khai chiêu mộ dân chúng, khai phá rừng thiêng, tạo lập bản mường. Về sau vùng đất này được xác định nằm trong 6 mường: Đại Lịch, Đồng Lách, Thượng Bằng La, Hạ Bằng La, Đà Giẽ và Hắc Tú Sơn, riêng Đại Lịch có 7 bản. Sau khi cụ Phạm Đình Yên qua đời, nhân dân trong vùng Bằng là Đại Lịch đã tôn thờ ông với tư cách là người khai khẩn đất Bằng Là, chiêu lập dân bản, tìm kế sinh nhai cho đồng bào. Đến năm Canh Thìn đời vua Cảnh Hưng thứ 21 (năm 1760) Đình Bằng Là được trùng tu và mở rộng để thờ phụng thêm các bậc tiền nhân, các anh hùng dân tộc đã có công xây dựng quê hương bản làng, chống giặc ngoại xâm, bảo vệ cuộc sống thanh bình cho nhân dân. Trong những năm 1930 - 1945, đình Bằng Là vừa là nơi sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của nhân dân Mường Mẻng, vừa là nơi đón tiếp, điểm dừng chân của nhiều nhà hoạt động cách mạng để tuyên truyền giác ngộ cách mạng, xây dựng vùng đệm cho chiến khu Vần chuẩn bị cho cuộc cách mạng tháng Tám tại Yên Bái. Tại đây đã diễn ra 3 cuộc họp bí mật triển khai lệnh toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thành lập chi bộ đảng lãnh đạo đội du kích và lực lượng vũ trang, chống thực dân Pháp giành những chiến công hiển hách tại Đèo Din, Lũng Bũm. Những nhân thần được thờ tự Đình Bằng Là thờ Thành Hoàng Làng - tức Cao Sơn Đại Vương Đệ Tam và ông tổ họ Phạm tên là Phạm Đình Yên đã có công chiêu mộ dân chúng, khai phá rừng thiêng, tạo lập bản mường. Với ý nghĩa lịch sử to lớn đó, đình Bằng Là xã Đại Lịch đã vinh dự được UBND tỉnh Yên Bái công nhân Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh. Đây là niềm tự hào của nhân dân xã Đại Lịch nói riêng và huyện Văn Chấn nói chung, trở thành nơi giáo dục truyền thống yêu nước của cha ông cho thế hệ trẻ hôm nay. Normal 0 false false false EN-US X-NONE X-NONE /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-priority:99; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin-top:0in; mso-para-margin-right:0in; mso-para-margin-bottom:10.0pt; mso-para-margin-left:0in; line-height:115%; mso-pagination:widow-orphan; font-size:14.0pt; font-family:"Times New Roman","serif";} Di tích chùa - đền - đình Minh Phú, xã Vân Hội, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái Di tích lịch sử chùa - đền - đình Minh Phú, xã Vân Hội, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái. Tên mỹ tự chùa: Minh Phú Tự - Chùa Minh Phú. Tên mỹ tự đền: Minh Phú Từ - Đền Minh Phú. Đền Vân Hội - Vân Hội tự và Chùa Vân Hội - Vân Hội từ. Địa điểm và đường đi đến Di tích Di tích chùa - đền - đình Minh Phú xã Vân Hội cách Ủy ban nhân dân xã 2km; cách trung tâm huyện 35km; cách trung tâm tỉnh Yên Bái 25km. Di tích có diện tích khoanh vùng bảo vệ: 18.967,5m2. Lịch sử cụm Di tích Theo sách địa danh và tài liệu lưu trữ về làng xã Bắc Kỳ (Trung tâm thông tin, lưu trữ quốc gia), Vân Hội là làng thuộc sách Đại Lịch, huyện Văn Chấn. Xã Vân Hội thành lập ngày 6/6/1988 trên cơ sở chia tách xã Việt Hồng thành 2 xã Việt Hồng và Vân Hội. Trải qua thời gian, xã Vân Hội ngày nay đã có nhiều thay đổi về địa danh, địa giới. Làng Vân Hội xưa thuộc tổng Đại Lịch, huyện Văn Chấn. Đến năm 1900, đổi thành xã Minh Phú, tổng Lương Ca, huyện Trấn Yên. Tên “Vân Hội” theo nghĩa Hán là vùng đất hội tụ mây lành (mây lành che chở). Nơi đây, sơn thủy hữu tình, phía Bắc được chắn bởi núi Muỗi, núi Chuối. Phía Tây được hệ thống núi Bụt, núi Nả, núi Kìm bao bọc. Phía Đông, phía Nam thông ra cánh đồng và là nơi hợp lưu của 3 con ngòi: Ngòi Vần (ngòi Vân - như dải mây), được hợp lưu bởi ngòi Mon, ngòi Lĩnh, dưới chân đồi Long Ẩn (Rồng ẩn). Đây là điểm nằm trên trục tâm đạo từ núi Muỗi sang núi Nả, hướng Đông Bắc - Tây Nam (đồi giữa cánh đồng lúa xưa nay nổi lên trên mặt hồ). Nơi đây cảnh sắc thiên nhiên rất tươi đẹp, thích hợp cho dựng ngôi chùa thờ Phật, là điểm nhấn của khu du lịch. Núi Bụt, theo truyền thuyết xưa có ngôi chùa nhỏ, thờ Phật có từ lâu đời. Đến thời Lê, với truyền thuyết Núi Nả. Công chúa nhà Lê kết duyên với người thợ buôn bè tên Phạm Đình Yên. Tương truyền, khi về quê chồng, công chúa đã vào ngôi chùa dưới chân núi Bụt (Phật) làm lễ và vượt đèo gỗ vào trong làng Dọc thì người hầu bị trăn cuốn chết. Ông Yên nghe lại tưởng công chúa chết, vội lên đường đi tìm thì bị ngã ngựa tử nạn. Công chúa đau buồn, lên núi Nả tu hành và hóa tại đó nên đời sau nhân dân gọi nơi đây là Núi Nả, hay núi bà chúa Nả. Núi Kìm, theo tiếng Tày là núi Mặn, liên quan đến khu núi này có đền thờ rất thiêng. Ngòi Vân (ngòi vần) là phụ lưu lớn của sông Hồng chảy từ núi Bụt ra cửa Long Ẩn, qua Hiền Lương, ra sông Thao. Nơi gần cửa sông này có đền Mẫu tổ Âu Cơ thờ mẫu xứ sở, đánh dấu bước chuyển biến thờ mẹ của người Việt, từ thờ mẹ đấng vô cùng, mẹ trời, mẹ rừng, mẹ đất, mẹ nước sang thờ mẹ xứ sở sản sinh ra con cháu dòng giống tiên rồng dân tộc Việt. Căn cứ vào các tài liệu dân tộc học, cho ta thông điệp những ngọn núi thiêng như núi Kìm, núi Bụt, núi Nả là sự khởi nguồn của ngòi Vần - con nước chuyển tải văn hóa thờ Mẫu Âu Cơ linh thiêng. Khu di tích (phế tích) đã được phát lộ vào tháng 10/2015, Bảo tàng tỉnh được nhân dân cung cấp thông tin phát hiện nhiều hiện vật bằng gốm, nằm rải rác trên quả đồi vùng cấm thuộc thôn 6, xã Vân Hội, huyện Trấn Yên. Bảo tàng tỉnh đã đào thám sát một hố có diện tích 5m2, kết quả khai quật phát hiện nhiều gạch cổ, đồ thờ bằng gốm có niên đại khoảng 500 năm (thời Lê), thông qua hiện vật cho ta thấy nơi đây có sự hiện diện của kiến trúc cổ đền, chùa, đình. Đồng thời, với những nghiên cứu văn hóa dân gian của Trung tâm quản lý di tích và phát triển du lịch cho thấy những địa danh (tên núi, đồi, ngòi, suối, khe, đồng ruộng) có dấu ấn của khu di tích ngàn xưa, gắn với truyền thuyết về mẹ Âu Cơ của thời đại Hùng Vương dựng nước rực rỡ ví như ngòi Vân (sau này đổi thành ngòi Vần) như dải mây kết từ "tam sơn", núi Phật (núi Bụt), núi Nả (bà chúa Nả), núi Kìm (núi thiêng), chảy uốn lượn ra cửa sông Thao thuộc địa phận xã Hiền Lương, Hạ Hòa, Phú Thọ, nơi đời sau chọn xây đền tổ Mẫu, tính tượng trưng này gắn với dải lụa đào của mẹ Âu Cơ khi hóa thân về trời, còn vương lại dải yếm đào vắt ngọn đa. Trong dòng chảy của văn hóa Việt có văn hóa của sắc tộc thiểu số đặc biệt là người Tày cùng với người Việt (người Kinh) gây dựng thành công nhà nước Văn Lang, Âu Lạc trước đây, việc lập các đền thờ để thờ các đấng vô cùng, trong đó đền Mẫu là phổ biến, các địa điểm thường từ đầu nguồn các dòng sông, ngọn suối (liên quan đến săn bắt, hái lượm). Sau này kéo dần về hạ nguồn do nhu cầu canh tác, quần cư, trồng lúa nước phải chọn đất bằng, rộng hơn thì các vùng đền thờ được di theo đến các vùng đất mới. Đền Âu Cơ hiện nay cách Vân Hội khoảng 5km, cuối nguồn ngòi vần cho ta thông tin về một ngôi đền cổ thờ Mẫu ngàn xưa có thể từ địa điểm khảo cổ tại thôn 6, xã Vân Hội, đầu đầm Vân Hội đã phát hiện năm 2015. Theo như cách tính niên đại trong tiến trình lịch sử Việt Nam thì thời kỳ Hồng Bàng; Hùng Vương với nhà nước Văn Lang (đóng đô ở Phong Châu), Thục Phán với nhà nước Âu Lạc (đóng đô ở Cổ Loa) ứng với văn hóa Đông Sơn và tiền Đông Sơn (khoảng 2000 TCN-100) với các giai đoạn Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun, Đông Sơn. Trong giai đoạn này ở vùng Yên Bái, có phát hiện khá phong phú, đa dạng các loại hình di tích, di vật có giá trị dọc theo đôi bờ sông Hồng. Có thể kể đến, thạp đồng Đào Thịnh và Hợp Minh..., các di chỉ ở Tuần Quán, Xóm Soi, Hợp Minh tìm thấy chỉ cách Vân Hội khoảng hơn 10 km. Qua những hiện vật đặc sắc thu được, có thể khẳng định: giai đoạn này, ở Yên Bái đã tồn tại một thế lực hùng mạnh. Cho thấy sự phát triển mạnh mẽ của cư dân cổ trên vùng đất này. Với vô vàn những câu chuyện truyền miệng ở vùng Vân Hội mà ta có được cùng với những chứng cứ vật chất đã được khai quật trong buổi đầu của thời kỳ lập quốc này phần nào đã chứng minh sự tồn tại của các thế lực hùng mạnh trong vùng cũng như đánh dấu công lao của quốc Mẫu ở vùng đất này. Vân Hội - vùng đất tụ mây lành che chở. Nơi đây, sơn thủy hữu tình, phía Bắc được chắn bởi núi Muỗi, núi Chuối; phía Tây hệ thống núi Bụt (núi Phật), núi Nả, núi Kìm bao bọc tạo thành thế “tả thanh long, hữu bạch hổ”. Phía Đông, phía Nam trải rộng ra cánh đồng Yếng và là nơi hợp lưu của 3 ngòi: Ngòi Vần (ngòi Vân - như dải mây), ngòi Mon, ngòi Lĩnh cùng tụ thủy dưới chân đồi Long Ần (Rồng ẩn), đây là điểm nằm trên trục tâm đạo từ núi Muỗi sang núi Nả, hướng Đông Bắc - Tây Nam. Vân Hội bốn hướng được các núi Bụt, núi Nả, núi Kìm, núi Muỗi và núi Quẽ trấn giữ, ở giữa có đồi Long Ấn (Rồng ẩn). Núi Nả, núi Bụt, núi Kìm là nơi khơi nguồn của ngòi vần - con nước như dòng sữa mẹ nuôi dưỡng tư tưởng, tâm hồn, đạo lý, khát vọng của người dân nơi đây hòa cùng dòng chảy văn hóa tín ngưỡng thờ Mẫu Âu Cơ. Như vậy, có thể thấy về phong thủy vùng đất Vân Hội xưa và nay rất đắc địa, là vùng đất “địa linh”, nơi hội tụ linh khí thiêng liêng của đất trời... nếu biết khai thác hết tiềm năng, thế mạnh chắc chắn sẽ phát tích làm nên nghiệp lớn, xây dựng Vân Hội phát triển trở thành trung tâm kinh tế, văn hóa, du lịch. Vân Hội còn là vùng đất đậm đặc văn hóa dân gian, ẩn chứa những huyền tích, huyền thoại... truyền thuyết công chúa Liễu Hoa nhà Lê kết duyên với Phạm Đình Yên, gắn với núi Nả, núi bà Chúa Nả (hiện nay vẫn còn địa danh núi Nả); truyền thuyết Mẫu Âu Cơ vẫn còn lưu truyền gắn với Ao Xanh, đồi Long Ẩn, đền thờ ở núi Kìm (núi thiêng); truyền thuyết nàng tiên giáng trần xuống vãn cảnh Thác Quẽ và tắm Ao Xanh; đình Đồng Chão, đình làng Yếng gắn với những huyền tích từ xa xưa và gắn với phong trào cách mạng chống Pháp ở địa phương. Di tích Đình Minh Phú: Theo “Tiền kinh khai khẩn” và “Chúc thư” của cụ Phạm Đình Liên, chép ngày 24/11 năm Canh Thìn, niên hiệu Cảnh Hưng 21 (1726), do tiến sỹ hán nôm Hoàng Thị Ngọ dịch, liên quan đến các vị thờ tại đình làng Dọc (xã Việt Hồng, huyện Trấn Yên) và đình Bằng Là (xã Đại Lịch, huyện Văn Chấn), cụ Phạm Bá Vậy (1687 - 1746) từ xã Kinh Chủ, huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương lên vùng đất sách Đại Lịch thời vua Lê - Chúa Trịnh (năm 1705), khi đó vùng đất này chưa có làng bản. Cụ chiêu dân lập thành 6 mường, 7 bản (lục mường, thất bản), rất có thể làng Minh Phú, làng Vân Hội được lập thời gian này và chắc cụ Phạm Bá Vậy có ý đặt tên làng Minh Phú, làng Vân Hội gắn với đặc điểm khí hậu, địa hình và mong dân giàu sang, phú quý. Minh Phú: ý nói vùng đất sáng, biết khai phá sẽ phú quý, giàu sang. Có lẽ vì thế mà cụ Phạm Bá Vậy đặt tên làng là Minh Phú. Vân Hội: Vân là mây. Hội là nước chảy vào; dân bỏ người cai trị chạy trốn đi gọi là hội. Như vậy, có thể hiểu khi xưa vùng đất này mây mù che chở, bao phủ, có 3 ngòi nước chảy về và tâm trạng của dòng họ Phạm bỏ quê ra đi nên đã đặt tên làng Vân Hội. Khi cụ Phạm Bá Vậy cùng với một số người từ Hải Dương lên mở đất, khai sơn phá thạch vùng đất Minh Phú, Vân Hội xưa, tuy là cư dân vùng đồng bằng Bắc Bộ khi lên vùng đất mới nhưng vẫn còn giữ được nét sinh hoạt tín ngưỡng vùng quê Bắc Bộ nên dựng đình để dân làng cầu mong Thành Hoàng che chở, phù hộ mọi điều tốt lành cho dân làng. Như vậy, đình Minh Phú có thể khởi dựng vào những năm đầu thế kỷ XVIII, từ 1710 - 1725. Kiến trúc đình: đình 3 gian, hình chữ Nhất, cột gỗ to, lợp cọ, xung quanh lịa ván gỗ làm vách; bên trong đình có 3 ban thờ: 1 ban thờ ở gian chính giữa, 2 ban thờ ở hai đầu hồi; ban thờ chính giữa chia thành 3 cấp, có ngai thờ, hạc đồng, ống hương… và nhiều bát nhang. Chùa Minh Phú - “Minh Phú tự”: Người Việt có quan niệm “đất vua chùa làng”, "trẻ vui nhà, già vui chùa”, là cư dân nông nghiệp vùng Trung du và đồng bằng Bắc Bộ, ngoài đời sống văn hóa tín ngưỡng - tâm linh bản địa, còn ảnh hưởng của Đạo Phật từ lâu đời, sâu rộng đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, nên khi đến định cư vùng đất Vân Hội xưa, do nhu cầu tín ngưỡng - tâm linh nhân dân đã xây dựng chùa. Ngày 13/6/2016, Bảo tàng tỉnh Yên Bái đã đào thám sát 2 địa điểm thôn 6, xã Vân Hội, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái. Qua đào thám sát có thể nhận thấy từ khu vực chân đồi đến đỉnh đồi đều phát hiện được các hiện vật khảo cổ học giai đoạn lịch sử phong kiến. Hiện vật thu được trong hố thám sát chủ yếu gồm 02 nhóm chính là mảnh sành và mảnh gốm men. Mỗi nhóm lại được chia thành các kiểu loại nhỏ dựa vào tình trạng và chất liệu từng loại. Theo thạc sỹ Phạm Thanh Sơn, Viện Khảo cổ học - Viện Hàn lâm Khoa học Xã Hội Việt Nam: Trong cả 02 hố thám sát tại địa điểm thôn 6, xã Vân Hội, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái, loại hình di vật thu được ở các hố đều có sự tương đồng về chất liệu và niên đại khoảng từ thế kỷ XV - XVI. Dưới lớp cỏ đã thu được nhiều mảnh ngói đất nung, mầu đỏ nhưng mủn do nhiệt độ nung không cao. Tuy vậy, trong hố thám sát cũng phát hiện được lon sành có niên đại thuộc nửa thế kỷ XIV. Từ kết quả đào thám sát phát hiện di vật và đối chiếu với các tư liệu có thể xác định chùa Minh Phú là một ngôi chùa cổ khởi dựng từ cuối thời Trần, đầu thời Lê (cuối thế kỷ XIV, đầu thế kỷ XV). Đặc điểm của chùa Minh Phú: cột gỗ, lợp ngói, kiến trúc nhỏ, đơn giản, là thiết chế Phật giáo, nằm ngay trong làng Minh Phú xưa. Nguyên nhân chùa bị hỏng: Có thể kiến trúc nhỏ nên khi bị gió bão, lốc mạnh đã làm chùa Minh Phú đổ sập hoặc bị hỏa hoạn thiêu rụi. Đền Minh Phú - “Minh Phú Từ”: Đền Minh Phú, thời gian xây dựng cũng như thời gian, nguyên nhân bị hỏng không hoạt động chưa xác định được năm cụ thể. Qua đào thám sát phát hiện các di vật bằng gốm men và đồ sành tại khu vực Di tích. Theo thạc sỹ Phạm Thanh Sơn, Viện Khảo cổ học - Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam có thể khẳng định: các di vật có niên đại khoảng thế kỷ XV - XVI. Hiện nay tại xã Vân Hội có núi Mặn, theo tiếng Tày mặn ý nói ở trên núi rất thiêng, nếu ai làm nhà ở sẽ bị ma quỷ, thần thánh quấy nhiễu, nên hàng chục năm qua không có ai dám làm nhà trên núi Mặn. Các cụ già trong xã cho biết, xưa trên núi có một ngôi đền thờ Mẫu rất linh thiêng. Căn cứ di vật đào được tại thôn 6, xã Vân Hội có thể đền (miếu) Minh Phú khởi dựng vào thời Lê. Di tích đền Minh Phú là một thiết chế tín ngưỡng dân gian; khởi nguồn là một miếu nhỏ, qua quá trình phát triển về dân số và nhu cầu hoạt động tín ngưỡng, tâm linh của người dân nên chuyển thành đền. Những vị nhân thần được thờ tự - Nhân vật được thờ đình Minh Phú: Thờ “Tam vị thượng đẳng thần Cao Sơn Đại Vương”, đó là ba vị thần: Tản Viên Sơn Thánh (còn có tên gọi là Sơn Tinh), Quý Minh Đại Vương và Thần Cao Sơn (hay Cao Sơn Địa Vương). Tam vị Cao Sơn Đại Vương đã trở thành Thành Hoàng và được nhân dân Việt Nam thờ phụng từ lâu đời. - Nhân vật được thờ chùa Minh Phú tự: Thờ Phật. - Nhân vật được thờ đền Minh Phú “Minh Phú Từ”: Thờ Mẫu. “Mẫu” - là “Bà Mẹ Thiêng liêng” với quyền năng vô bờ bến. Về tín ngưỡng thờ Mẫu, người dân Minh Phú chịu ảnh hưởng của thờ Mẫu Âu Cơ và thờ Mẫu đệ Nhị Thượng Ngàn (đền Đông Cuông), Mẫu Thượng Thiên (Mẫu Liễu Hạnh), Mẫu Thoải. Những hiện vật lịch sử trong di tích - Các hiện vật đình Minh Phú: Lon gốm đất nung đường kính từ 8cm - 15cm, cao 12cm - 20 cm; 03 sắc phong của vua Khải định cho đình Minh Phú: Đạo sắc phong số 1; Đạo sắc phong số 2; Đạo sắc phong số 3. - Các hiện vật chùa Minh Phú tự: Không còn các hiện vật. - Các hiện vật đền Minh Phú “Minh Phú Từ”: Không còn các hiện vật. Phong tục lễ hội Lễ hội đình Minh Phú Trong năm tại đình diễn ra nhiều lễ hội, nhưng lễ chính vào ngày rằm tháng giêng và rằm tháng bảy. Trong dịp lễ rằm tháng giêng và tháng bảy, dân làng có tổ chức rước lễ từ đình Minh Phú vào đình Bằng Là (nay thuộc xã Đại Lịch, huyện Văn Chấn), để tưởng nhớ, tri ân công ơn của cụ Phạm Bá Vậy - tức Phạm Văn Giã người có công chiêu dân khai khẩn lập làng, lập mường. Và rước lễ từ đình Minh Phú vào đình làng Dọc để tưởng nhớ, tri ân công ơn của cụ Phạm Đình Lực (tức Phạm Bá Lực), người có công lập làng, khai phá làng Dọc, được vua giáng chỉ phong hàm “Tiền Kinh Khai Khẩn”, Thụy phong cấp 2 là “Thượng Ngàn Đại Sơn Nhân Thần”, năm Đinh Sửu niên hiệu Cảnh Hưng Thập Bát Niên thứ 18. Lễ hội Chùa Minh Phú Theo nghi lễ Phật giáo, lễ hội được tổ chức vào các ngày: - Tết Nguyên Tiêu - Tết Phật Đản - Tết Trung Nguyên Lễ hội đền Minh Phú: tổ chức vào các ngày: - Rằm tháng Giêng - Tết Thượng Nguyên. - Lễ thờ Mẫu (3/3 âm lịch) - Tết Trung Nguyên - Lễ Đức Thánh Trần (20/8 âm lịch) Trải qua thời gian, biến cố thăng trầm của lịch sử, chùa, đền, đình Minh Phú không còn, chỉ còn lại dấu tích và chỉ còn trong tâm thức của mỗi người dân Vân Hội và trong vùng. Nhưng với tinh thần tôn trọng lịch sử, tự hào dân tộc, để truyền thống nối tiếp lịch sử không ngừng trong dòng chảy văn hóa Đại Việt, xã Vân Hội đã bảo quản giữ gìn nguyên vẹn 3 đạo sắc phong của vua Khải Định, thường xuyên giáo dục lịch sử truyền thống văn hóa cho các thế hệ. Đặc biệt thực Nghị quyết Trung ương 9 (khóa XI) về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”, xã Vân Hội đã ban hành Nghị quyết, kế hoạch về lập hồ sơ xếp hạng di tích chùa, đền, đình Minh Phú nhằm phục dựng bảo tồn và phát huy giá trị di tích, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là phát triển du lịch văn hóa tâm linh gắn với du lịch văn hóa cộng đồng sinh thái, đồng thời đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của nhân dân trong và ngoài địa phương. Năm 2016, xã Vân Hội đã cùng với Bảo tàng, Trung tâm quản lý Di tích và Phát triển du lịch tỉnh đào, tham sát, xác định các tầng văn hóa, sưu tầm, nghiên cứu lập hồ sơ khoa học di tích và quy hoạch 18.967,5m2 đất để phục dựng lại di tích chùa, đền, đình Minh Phú. Do đó, Ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái đã công nhận chùa - đền - đình Minh Phú, xã Vân Hội, huyện Trấn Yên là Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh. Ngày 15/7/2016, Ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái ban hành Quyết định số 1419/QĐ-UBND công nhận chùa - đền - đình Minh Phú, xã Vân Hội, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái là Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh. Ths Nguyễn Thy Ngà: tổng hợp Cổng thông tin điện tử Yên Bái Tỉnh Yên Bái có rất nhiều các địa điểm thờ phụng những vị anh hùng dân tộc đã vì dân vì nước thời Kỳ Hùng Vương. Những vị nhân thần được thờ phụng nhiều trong các đình, đền là Tam Thánh Tản Viên cùng những anh hùng dân tộc, đã có nhiều công lao bảo vệ Tổ Quốc, giúp dân khai hoang, trồng trọt, xây dựng quê hương. Cụm di tích lịch sử đình, đền và chùa Văn Tiến, xã Văn Tiến, thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái Đình Văn Tiến Cuối thế kỷ XIX, tại các tỉnh miền xuôi do dân số đông, diện tích đất canh tác chật hẹp, cộng với chính sách chiêu mộ lao động vào làm việc trong các đồn điền chè, cà phê của Pháp nên một bộ phận cư dân các tỉnh miền xuôi và trung du đã mang theo gia đình lên Văn Tiến khai phá vùng đất mới. Vào thời gian này nơi đây là vùng đất còn hoang vu, dân cư thưa thớt, nhân dân chủ yếu sống bằng nghề nông, cuộc sống ban đầu gặp rất nhiều khó khăn, kinh tế chủ yếu là trồng cấy các loại cây nông nghiệp và chăn nuôi, mùa vụ phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên nên họ luôn có niềm tin vào các đấng siêu nhiên ngự trị tại mỗi vùng đất như thần mây, thần mưa, thần sấm, thần chớp… Vì vậy, từ thực tế cuộc sống và nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng thờ các vị thần và tưởng nhớ người đã có công khai phá lập làng nhân dân Văn Tiến đã đóng góp xây dựng ngôi đình làm nơi sinh hoạt văn hóa - tín ngưỡng, thờ Thành Hoàng làng và các vị thần ngự trị tại đây để thể hiện lòng thành kính, cầu mong có một cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Đền Văn Tiến Để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của mình, sau khi xây dựng đình, nhân dân tiếp tục xây dựng đền Văn Tiến để thờ mẫu và các vị thánh. Với quan niệm "vạn vật hữu linh", nhân dân cho rằng mọi vật đều có linh hồn, trong sự bế tắc vào việc giải thích nguồn gốc của vũ trụ, từ các hiện tượng tự nhiên như dịch bệnh, hạn hán… người dân cần một chỗ dựa về tinh thần để yên tâm lao động sản xuất nên đã tin tưởng vào thần linh và các vị thánh. Đồng thời lập đền thờ thần thánh với mong muốn được phù hộ cho mưa thuận gió hòa, sức khỏe dồi dào. Chùa Văn Tiến Phật giáo du nhập vào Việt Nam khoảng thế kỷ VII sau Công Nguyên, có sức lan tỏa mạnh mẽ, dễ thích nghi và đáp ứng nhu cầu tâm linh của các tầng lớp trong xã hội. Từ khi du nhập, tư tưởng Phật giáo đã thấm sâu vào tư tưởng con người nhất là từ thời Lý - Trần khi phật giáo trở thành quốc giáo ở nước ta. Cuối thế kỷ XIX, dưới sự áp bức của các thế lực thực dân và phong kiến làm cho đời sống nhân dân vô cùng cực khổ. Vốn là cư dân nông nghiệp sống lâu đời ở đồng bằng Bắc Bộ, Phật giáo đã thấm sâu vào làng xã, vào tư tưởng con người, cùng với ảnh hưởng Phật giáo du nhập vào Yên Bái từ thời Lý - Trần, nên sau khi lên vùng đất Văn Tiến sinh sống, người dân đã xây dựng ngôi chùa lấy tên gắn với địa danh Văn Tiến. Từ khi chùa Văn Tiến được xây dựng đã trở thành nơi sinh hoạt tín ngưỡng - tôn giáo, thu hút được đông đảo phật tử trong và ngoài vùng đến tụng kinh niệm phật, cầu mong sự che chở của thần linh và phật. Những nhân thần được thờ tự tại đình Văn Tiến: Đình Văn Tiến thờ Thành Hoàng có tên Trịnh Nguyên (tên húy Cụ Ngô), theo các cụ cao niên trong xã kể lại, ông là một vị tướng của triều đình, được cử đi đánh dẹp giặc phương Bắc. Sau khi chiến thắng quân xâm lược, nhận thấy vùng đất bằng phẳng màu mỡ, có địa thế thuận lợi có thể sinh sống lâu dài nên ông đưa dân đến, khai phá mở mang vùng đất Văn Tiến. Khi ông mất nhân dân đã suy tôn ông là Thành Hoàng làng. Ngoài thờ Thành Hoàng Trịnh Nguyên, với văn hóa đình làng truyền thống của nhân dân miền xuôi, đình Văn Tiến còn thờ tam vị đẳng thần bao gồm: Tản Viên Sơn Thánh, Quý Minh Đại Vương, Cao Sơn Đại Vương. Theo truyền thuyết dân gian ba vị đại vương trên là ba anh em, cùng là tướng thời Hùng Duệ Vương (Hùng Vương thứ 18) đã có công trấn ải Sơn Nam bảo vệ đất nước. Sau khi giúp vua Hùng Duệ Vương đánh thắng quân xâm lược, mỗi vị thần ngự ở một ngọn núi (bên trái của dãy Ba Vì là thần Cao Sơn; Tản Viên Sơn Thánh đứng giữa, bên phải là Quý Minh Đại Vương). Các vị đại vương trên được nhân dân khắp nơi thờ phụng, trở thành Thành Hoàng làng và nổi tiếng là vị thần linh ứng khi nhân dân cầu đảo. Nhân vật thờ tự và bài trí tượng thờ đền Văn Tiến: Hậu cung là nơi thâm nghiêm đặt ban thờ Tam Tòa Thánh Mẫu. Tượng ở giữa có sắc phục màu đỏ là tượng bà chúa Liễu Hạnh hay còn gọi là Mẫu đệ nhất Thượng Thiên (Mẫu nghi thiên hạ). Tượng bên phải có sắc phục màu xanh là Mẫu đệ nhị Thượng Ngàn (cai quản rừng xanh). Tượng bên trái có sắc phục màu trắng là Mẫu đệ tam Thoải Phủ (cai quản miền sông nước). Hàng thứ hai là tượng Ngũ Vị Tôn Ông: Đệ nhất Thượng Thiên (áo đỏ tươi); Đệ Nhị Thượng Ngàn giám sát đại vương thượng đẳng tối linh thần (áo xanh); Đệ Tam Thoải Phủ cai bản mệnh thanh đồng (áo trắng); Đệ Tứ Khâm Sai quyền cai tứ phủ (áo vàng); Đệ Ngũ Tuần Tranh - quyền cai quản âm binh nhà trời (áo đỏ thẫm). Hàng thứ ba là tượng Tam vị Quan Hoàng: Ở giữa là ông Hoàng Bảy (áo xanh); Bên phải là tượng ông Hoàng Mười (áo vàng); Bên trái là tượng ông Hoàng Ba (áo trắng). Bên phải gian đại bái là ban thờ bà chúa Sơn Trang. Ban thờ bên trái thờ Đức Thánh Trần và Đệ Nhất Vương Cô, Đệ Nhị Vương Cô. Hệ thống tượng thờ chùa Văn Tiến: Lớp thứ nhất: Trên cùng là tượng Tam Thế Phật gồm ba pho tượng, bên trái là Quá Khứ Thế, ở giữa là Hiện Tại Thế, bên phải là Vị Lai Thế. Tên đầy đủ là Tam Thế Phật (phật quá khứ, hiện tại và tương lai). Lớp thứ hai: Bộ Di Đà Tam Tôn, trong đó phật A Di Đà ở giữa; Quan Thế Âm Bồ Tát ở bên trái; Đại Thế Chí Bồ Tát ở bên phải. Phật A Di Đà thể hiện tính bát đại, tuyên ngôn của đạo Phật là từ tâm và trí tuệ; Quan Thế Âm Bồ Tát: đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả (bốn tính thuộc từ tâm); Đại Thế Chí Bồ Tát: đại hùng, đại lực, đại trí, đại dũng (bốn tính thuộc trí tuệ). A Di Đà là vị phật ở Tây phương cực lạc, có chức năng tiếp dẫn linh hồn nhưng vì ít xuống trần gian nên phải nhờ đến hai vị bồ tát của mình. Lớp thứ 3: Bộ tượng Hoa Nghiêm Tam Thánh, gồm tượng Bồ Tát Thiên Thủ Thiên Nhãn (nghìn tay nghìn mắt) mỗi bàn tay đều có con mắt trí tuệ, trong tay cầm nhiều pháp khí dùng hàng phục ma chướng, những cánh tay cầm kiếm, búa, tràng hoa, châu báu, vải lụa gấm vóc, hoa sen, bánh xe pháp, bình tịnh thủy, chày kim cang…cũng tượng trưng cho mọi ngành nghề trong cuộc sống trên thế gian này. Bồ Tát Thiên Thủ Thiên Nhãn còn có danh hiệu Bồ Tát Chuẩn Đề, qua hình tượng Bồ Tát Thiên Thủ Thiên Nhãn chúng ta cũng có thể thấy được ý nghĩa công đức và phúc đức. Với tư tưởng giải thoát tuyệt đối của đạo Phật, nhận thức tâm lý con người ở thế gian thân, miệng, ý là nguyên nhân tạo những nghiệp thiện hay ác qua nhiều kiếp luân hồi, chỉ có tu hạnh bồ tát mới chuyển đổi được nhân quả. Bên phải là tượng Phổ Hiền Bồ Tát, bên trái là tượng Văn Thù Bồ Tát. Lớp thứ 4: Ở giữa là tượng Ngọc Hoàng, bên phải Nam Tào, bên trái là Bắc Đẩu. Lớp thứ 5: Tòa Cửu Long, tượng này theo điển tích nói khi Đức Thích Ca Mầu Ni mới giáng sinh, có chín con rồng xuống phun nước cho ngài tắm, đoạn ngài đi bẩy bước tay tả chỉ lên trời, tay hữu chỉ xuống đất mà nói rằng: “Thiên thượng, thiên hạ, duy ngã độc tôn. Trên trời, dưới đất, chỉ có ta là quí hơn cả” Bởi vậy tòa Cửu Long làm chín con rồng vây bọc chung quanh và ở trên những đám mây có chư phật chư thiên, nhã nhạc, cờ phướn và Bát Bộ Kim Cương, ở giữa có pho tượng nhỏ, đứng một tay chỉ lên trời và một tay chỉ xuống đất, đó là tượng Bổn Sư Thích Ca Mầu Ni Phật lúc sơ sinh. Các hiện vật trong Di tích Hiện vật tại di tích đền Văn Tiến gồm có: 02 tượng mẫu (cũ); Bộ tượng Tam Tòa Thánh Mẫu; Bộ tượng Ngũ Vị Tôn Ông; Tượng Đức Trần Triều; Tượng Đệ Nhất Vương Cô và Đệ Nhị Vương Cô. Ngoài ra trong đền còn có các hiện vật khác như ống hương, ống hoa, đao, kiếm, khay đồng, chuông đồng… Phong tục lễ hội. Lễ Thượng nguyên: Lễ Thượng nguyên được tổ chức vào ngày rằm tháng giêng. Vào ngày này ai đến chùa đều lễ Phật cầu an cho gia đình, dòng họ, đất nước, cho thiện hạ thái bình, an lạc. Đây cũng là ngày mà Phật tử về chùa lễ Phật, sám hối, phát nguyện, nỗ lực tinh tấn tu tập mong trọn vẹn năm ấy được phúc lành. Lễ Phật Đản: Lễ Phật Đản được tổ chức vào ngày 14/4 - 15/4 (âm lịch). Vào ngày chính lễ nhà chùa cùng các phật tử và bà con nhân dân chuẩn bị các đồ cúng chay như: hoa, quả, chè lam, oản, bánh… là những sản phẩm do chính tay người dân làm ra. Những nguyên liệu như gạo, nước dùng làm bánh đều được lựa chọn và cất giữ tại kho riêng. Gạo phải hạt to, tròn được gặt từ ruộng lúa được chăm sóc với chế độ đặc biệt không bị sâu bệnh. Nước phải là được lấy từ giếng chùa để làm bánh và oản. Trong lễ Phật đản nổi bật lên nghi lễ Tắm Phật. Nước tắm Phật là loại nước thơm (nước thơm được kết hợp từ lá sen và các loại hoa, thảo dược từ thiên nhiên) để tắm tượng. Lễ Vu lan báo hiếu : Rằm tháng Bảy được giới tăng ni phật tử gọi là lễ Vu Lan, là dịp để con cái báo hiếu bậc sinh thành và tổ tiên đã khuất. Theo tín ngưỡng, rằm tháng Bảy cũng là ngày xá tội vong nhân, nhà nhà bày mâm cao cỗ đầy để cúng chúng sinh. Hàng năm, ngày lễ Vu Lan nhắc nhở mỗi người tưởng nhớ công ơn cha mẹ, ở kiếp này và các kiếp trước. Vào ngày này các phật tử cùng bà con dân làng lên chùa với ước vọng cầu siêu mong cho các linh hồn của ông, bà, cha, mẹ được siêu thoát, đây chính là truyền thống uống nước nhớ nguồn của dân tộc Việt Nam và đạo lý tri ân hiếu hạnh với cha mẹ, ông bà, tổ tiên theo lời đức Phật dạy. Tại đình Văn Tiến Lễ hội hàng năm tại lưu giữ nét truyền thống đặc sắc, thu hút được đông đảo quần chúng nhân dân tham gia. Lễ hội diễn ra vào các dịp trong năm (tính theo âm lịch): Mùng 7 tháng giêng tổ chức lễ khai xuân, đây là ngày lễ lớn nhất trong năm. Trong ngày khai xuân, lễ cúng phải có các đồ lễ như chè lam, bánh bỏng, bánh tẻ, bánh mật, cơm lam, hoa chuối bạch, rau gai và rượu. Ngày 15 tháng giêng tổ chức tết Nguyên tiêu. Ngày 25 tháng chạp tổ chức lễ tạ. Tại đền Văn Tiến ngày mùng 7 tháng giêng hàng năm tổ chức lễ giỗ Mẫu. Theo tục lệ, cứ đến ngày này hàng năm nhà đền lại chuẩn bị đồ cúng lễ. Có hai loại mâm cúng là cúng chay và cúng tạp. Mâm cúng chay có những đồ làm từ thực vật, gồm: cơm nếp, cơm tẻ, oản, chè lam, bánh khảo, bánh chuối và 01 chén đựng nước… Mâm cúng tạp gồm thức ăn được chế biến từ thịt động vật và thực vật như thủ lợn, chân giò, thịt, đuôi lợn và rượu, gà, vịt và các loại hoa quả, gạo nếp, gạo tẻ, cơm lam, xôi nếp, rượu, hương, hoa - là những sản vật do chính người dân nơi đây làm ra, dâng lên cúng tế tổ tiên, trời đất và các thần - thánh nhằm kính báo và tạ ơn tổ tiên, trời đất, thần thánh đã che chở, phù hộ cho một năm được mùa, cuộc sống an bình, hạnh phúc. Khi mọi việc chuẩn bị xong, đến giờ đẹp các mâm cúng được bày đặt đúng vị trí, thủ nhang làm lễ cúng tế tạ ơn các vị thánh đã che chở, ban cho dân làng một năm an bình, mùa màng bội thu, diệt trừ cái ác… đồng thời cầu cho một năm mới mưa thuận, gió hòa, vạn vật sinh sôi nảy nở, lúa tốt đầy bồ, mọi người khỏe mạnh… Ngoài ra đền Văn Tiến còn tổ chức các ngày lễ khác trong năm như lễ Mẫu ngày 10 tháng 3 âm lịch; lễ các thánh thần 20 tháng 8; 10 tháng 10 lễ cúng cơm mới. Quyết định công bố Di tích Quyết định số 237/QĐ-UBND ngày 17/02/2016 của Ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái công nhận đình, đền và chùa Văn Tiến, xã Văn Tiến, thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái là Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh. Di tích lịch sử - văn hóa đình Bằng Là (Đình Cả, Đình Tổng), xã Đại Lịch, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái. Sơ lược lịch sử Di tích Di tích đình Bằng Là thuộc xã Đại Lịch, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái. Đình Bằng Là hay còn có tên gọi là Đình Cả, Đình Tổng được ra đời cách đây gần 3 thế kỷ, nơi đây thờ Thành Hoàng Làng tức Cao Sơn Đại vương đệ tam và ông tổ họ Phạm tên là Phạm Đình Yên đã có công khai chiêu mộ dân chúng, khai phá rừng thiêng, tạo lập bản mường. Về sau vùng đất này được xác định nằm trong 6 mường: Đại Lịch, Đồng Lách, Thượng Bằng La, Hạ Bằng La, Đà Giẽ và Hắc Tú Sơn, riêng Đại Lịch có 7 bản. Sau khi cụ Phạm Đình Yên qua đời, nhân dân trong vùng Bằng là Đại Lịch đã tôn thờ ông với tư cách là người khai khẩn đất Bằng Là, chiêu lập dân bản, tìm kế sinh nhai cho đồng bào. Đến năm Canh Thìn đời vua Cảnh Hưng thứ 21 (năm 1760) Đình Bằng Là được trùng tu và mở rộng để thờ phụng thêm các bậc tiền nhân, các anh hùng dân tộc đã có công xây dựng quê hương bản làng, chống giặc ngoại xâm, bảo vệ cuộc sống thanh bình cho nhân dân. Trong những năm 1930 - 1945, đình Bằng Là vừa là nơi sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của nhân dân Mường Mẻng, vừa là nơi đón tiếp, điểm dừng chân của nhiều nhà hoạt động cách mạng để tuyên truyền giác ngộ cách mạng, xây dựng vùng đệm cho chiến khu Vần chuẩn bị cho cuộc cách mạng tháng Tám tại Yên Bái. Tại đây đã diễn ra 3 cuộc họp bí mật triển khai lệnh toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thành lập chi bộ đảng lãnh đạo đội du kích và lực lượng vũ trang, chống thực dân Pháp giành những chiến công hiển hách tại Đèo Din, Lũng Bũm. Những nhân thần được thờ tự Đình Bằng Là thờ Thành Hoàng Làng - tức Cao Sơn Đại Vương Đệ Tam và ông tổ họ Phạm tên là Phạm Đình Yên đã có công chiêu mộ dân chúng, khai phá rừng thiêng, tạo lập bản mường. Với ý nghĩa lịch sử to lớn đó, đình Bằng Là xã Đại Lịch đã vinh dự được UBND tỉnh Yên Bái công nhân Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh. Đây là niềm tự hào của nhân dân xã Đại Lịch nói riêng và huyện Văn Chấn nói chung, trở thành nơi giáo dục truyền thống yêu nước của cha ông cho thế hệ trẻ hôm nay. Di tích chùa - đền - đình Minh Phú, xã Vân Hội, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái Di tích lịch sử chùa - đền - đình Minh Phú, xã Vân Hội, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái. Tên mỹ tự chùa: Minh Phú Tự - Chùa Minh Phú. Tên mỹ tự đền: Minh Phú Từ - Đền Minh Phú. Đền Vân Hội - Vân Hội tự và Chùa Vân Hội - Vân Hội từ. Địa điểm và đường đi đến Di tích Di tích chùa - đền - đình Minh Phú xã Vân Hội cách Ủy ban nhân dân xã 2km; cách trung tâm huyện 35km; cách trung tâm tỉnh Yên Bái 25km. Di tích có diện tích khoanh vùng bảo vệ: 18.967,5m2. Lịch sử cụm Di tích Theo sách địa danh và tài liệu lưu trữ về làng xã Bắc Kỳ (Trung tâm thông tin, lưu trữ quốc gia), Vân Hội là làng thuộc sách Đại Lịch, huyện Văn Chấn. Xã Vân Hội thành lập ngày 6/6/1988 trên cơ sở chia tách xã Việt Hồng thành 2 xã Việt Hồng và Vân Hội. Trải qua thời gian, xã Vân Hội ngày nay đã có nhiều thay đổi về địa danh, địa giới. Làng Vân Hội xưa thuộc tổng Đại Lịch, huyện Văn Chấn. Đến năm 1900, đổi thành xã Minh Phú, tổng Lương Ca, huyện Trấn Yên. Tên “Vân Hội” theo nghĩa Hán là vùng đất hội tụ mây lành (mây lành che chở). Nơi đây, sơn thủy hữu tình, phía Bắc được chắn bởi núi Muỗi, núi Chuối. Phía Tây được hệ thống núi Bụt, núi Nả, núi Kìm bao bọc. Phía Đông, phía Nam thông ra cánh đồng và là nơi hợp lưu của 3 con ngòi: Ngòi Vần (ngòi Vân - như dải mây), được hợp lưu bởi ngòi Mon, ngòi Lĩnh, dưới chân đồi Long Ẩn (Rồng ẩn). Đây là điểm nằm trên trục tâm đạo từ núi Muỗi sang núi Nả, hướng Đông Bắc - Tây Nam (đồi giữa cánh đồng lúa xưa nay nổi lên trên mặt hồ). Nơi đây cảnh sắc thiên nhiên rất tươi đẹp, thích hợp cho dựng ngôi chùa thờ Phật, là điểm nhấn của khu du lịch. Núi Bụt, theo truyền thuyết xưa có ngôi chùa nhỏ, thờ Phật có từ lâu đời. Đến thời Lê, với truyền thuyết Núi Nả. Công chúa nhà Lê kết duyên với người thợ buôn bè tên Phạm Đình Yên. Tương truyền, khi về quê chồng, công chúa đã vào ngôi chùa dưới chân núi Bụt (Phật) làm lễ và vượt đèo gỗ vào trong làng Dọc thì người hầu bị trăn cuốn chết. Ông Yên nghe lại tưởng công chúa chết, vội lên đường đi tìm thì bị ngã ngựa tử nạn. Công chúa đau buồn, lên núi Nả tu hành và hóa tại đó nên đời sau nhân dân gọi nơi đây là Núi Nả, hay núi bà chúa Nả. Núi Kìm, theo tiếng Tày là núi Mặn, liên quan đến khu núi này có đền thờ rất thiêng. Ngòi Vân (ngòi vần) là phụ lưu lớn của sông Hồng chảy từ núi Bụt ra cửa Long Ẩn, qua Hiền Lương, ra sông Thao. Nơi gần cửa sông này có đền Mẫu tổ Âu Cơ thờ mẫu xứ sở, đánh dấu bước chuyển biến thờ mẹ của người Việt, từ thờ mẹ đấng vô cùng, mẹ trời, mẹ rừng, mẹ đất, mẹ nước sang thờ mẹ xứ sở sản sinh ra con cháu dòng giống tiên rồng dân tộc Việt. Căn cứ vào các tài liệu dân tộc học, cho ta thông điệp những ngọn núi thiêng như núi Kìm, núi Bụt, núi Nả là sự khởi nguồn của ngòi Vần - con nước chuyển tải văn hóa thờ Mẫu Âu Cơ linh thiêng. Khu di tích (phế tích) đã được phát lộ vào tháng 10/2015, Bảo tàng tỉnh được nhân dân cung cấp thông tin phát hiện nhiều hiện vật bằng gốm, nằm rải rác trên quả đồi vùng cấm thuộc thôn 6, xã Vân Hội, huyện Trấn Yên. Bảo tàng tỉnh đã đào thám sát một hố có diện tích 5m2, kết quả khai quật phát hiện nhiều gạch cổ, đồ thờ bằng gốm có niên đại khoảng 500 năm (thời Lê), thông qua hiện vật cho ta thấy nơi đây có sự hiện diện của kiến trúc cổ đền, chùa, đình. Đồng thời, với những nghiên cứu văn hóa dân gian của Trung tâm quản lý di tích và phát triển du lịch cho thấy những địa danh (tên núi, đồi, ngòi, suối, khe, đồng ruộng) có dấu ấn của khu di tích ngàn xưa, gắn với truyền thuyết về mẹ Âu Cơ của thời đại Hùng Vương dựng nước rực rỡ ví như ngòi Vân (sau này đổi thành ngòi Vần) như dải mây kết từ "tam sơn", núi Phật (núi Bụt), núi Nả (bà chúa Nả), núi Kìm (núi thiêng), chảy uốn lượn ra cửa sông Thao thuộc địa phận xã Hiền Lương, Hạ Hòa, Phú Thọ, nơi đời sau chọn xây đền tổ Mẫu, tính tượng trưng này gắn với dải lụa đào của mẹ Âu Cơ khi hóa thân về trời, còn vương lại dải yếm đào vắt ngọn đa. Trong dòng chảy của văn hóa Việt có văn hóa của sắc tộc thiểu số đặc biệt là người Tày cùng với người Việt (người Kinh) gây dựng thành công nhà nước Văn Lang, Âu Lạc trước đây, việc lập các đền thờ để thờ các đấng vô cùng, trong đó đền Mẫu là phổ biến, các địa điểm thường từ đầu nguồn các dòng sông, ngọn suối (liên quan đến săn bắt, hái lượm). Sau này kéo dần về hạ nguồn do nhu cầu canh tác, quần cư, trồng lúa nước phải chọn đất bằng, rộng hơn thì các vùng đền thờ được di theo đến các vùng đất mới. Đền Âu Cơ hiện nay cách Vân Hội khoảng 5km, cuối nguồn ngòi vần cho ta thông tin về một ngôi đền cổ thờ Mẫu ngàn xưa có thể từ địa điểm khảo cổ tại thôn 6, xã Vân Hội, đầu đầm Vân Hội đã phát hiện năm 2015. Theo như cách tính niên đại trong tiến trình lịch sử Việt Nam thì thời kỳ Hồng Bàng; Hùng Vương với nhà nước Văn Lang (đóng đô ở Phong Châu), Thục Phán với nhà nước Âu Lạc (đóng đô ở Cổ Loa) ứng với văn hóa Đông Sơn và tiền Đông Sơn (khoảng 2000 TCN-100) với các giai đoạn Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun, Đông Sơn. Trong giai đoạn này ở vùng Yên Bái, có phát hiện khá phong phú, đa dạng các loại hình di tích, di vật có giá trị dọc theo đôi bờ sông Hồng. Có thể kể đến, thạp đồng Đào Thịnh và Hợp Minh..., các di chỉ ở Tuần Quán, Xóm Soi, Hợp Minh tìm thấy chỉ cách Vân Hội khoảng hơn 10 km. Qua những hiện vật đặc sắc thu được, có thể khẳng định: giai đoạn này, ở Yên Bái đã tồn tại một thế lực hùng mạnh. Cho thấy sự phát triển mạnh mẽ của cư dân cổ trên vùng đất này. Với vô vàn những câu chuyện truyền miệng ở vùng Vân Hội mà ta có được cùng với những chứng cứ vật chất đã được khai quật trong buổi đầu của thời kỳ lập quốc này phần nào đã chứng minh sự tồn tại của các thế lực hùng mạnh trong vùng cũng như đánh dấu công lao của quốc Mẫu ở vùng đất này. Vân Hội - vùng đất tụ mây lành che chở. Nơi đây, sơn thủy hữu tình, phía Bắc được chắn bởi núi Muỗi, núi Chuối; phía Tây hệ thống núi Bụt (núi Phật), núi Nả, núi Kìm bao bọc tạo thành thế “tả thanh long, hữu bạch hổ”. Phía Đông, phía Nam trải rộng ra cánh đồng Yếng và là nơi hợp lưu của 3 ngòi: Ngòi Vần (ngòi Vân - như dải mây), ngòi Mon, ngòi Lĩnh cùng tụ thủy dưới chân đồi Long Ần (Rồng ẩn), đây là điểm nằm trên trục tâm đạo từ núi Muỗi sang núi Nả, hướng Đông Bắc - Tây Nam. Vân Hội bốn hướng được các núi Bụt, núi Nả, núi Kìm, núi Muỗi và núi Quẽ trấn giữ, ở giữa có đồi Long Ấn (Rồng ẩn). Núi Nả, núi Bụt, núi Kìm là nơi khơi nguồn của ngòi vần - con nước như dòng sữa mẹ nuôi dưỡng tư tưởng, tâm hồn, đạo lý, khát vọng của người dân nơi đây hòa cùng dòng chảy văn hóa tín ngưỡng thờ Mẫu Âu Cơ. Như vậy, có thể thấy về phong thủy vùng đất Vân Hội xưa và nay rất đắc địa, là vùng đất “địa linh”, nơi hội tụ linh khí thiêng liêng của đất trời... nếu biết khai thác hết tiềm năng, thế mạnh chắc chắn sẽ phát tích làm nên nghiệp lớn, xây dựng Vân Hội phát triển trở thành trung tâm kinh tế, văn hóa, du lịch. Vân Hội còn là vùng đất đậm đặc văn hóa dân gian, ẩn chứa những huyền tích, huyền thoại... truyền thuyết công chúa Liễu Hoa nhà Lê kết duyên với Phạm Đình Yên, gắn với núi Nả, núi bà Chúa Nả (hiện nay vẫn còn địa danh núi Nả); truyền thuyết Mẫu Âu Cơ vẫn còn lưu truyền gắn với Ao Xanh, đồi Long Ẩn, đền thờ ở núi Kìm (núi thiêng); truyền thuyết nàng tiên giáng trần xuống vãn cảnh Thác Quẽ và tắm Ao Xanh; đình Đồng Chão, đình làng Yếng gắn với những huyền tích từ xa xưa và gắn với phong trào cách mạng chống Pháp ở địa phương. Di tích Đình Minh Phú: Theo “Tiền kinh khai khẩn” và “Chúc thư” của cụ Phạm Đình Liên, chép ngày 24/11 năm Canh Thìn, niên hiệu Cảnh Hưng 21 (1726), do tiến sỹ hán nôm Hoàng Thị Ngọ dịch, liên quan đến các vị thờ tại đình làng Dọc (xã Việt Hồng, huyện Trấn Yên) và đình Bằng Là (xã Đại Lịch, huyện Văn Chấn), cụ Phạm Bá Vậy (1687 - 1746) từ xã Kinh Chủ, huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương lên vùng đất sách Đại Lịch thời vua Lê - Chúa Trịnh (năm 1705), khi đó vùng đất này chưa có làng bản. Cụ chiêu dân lập thành 6 mường, 7 bản (lục mường, thất bản), rất có thể làng Minh Phú, làng Vân Hội được lập thời gian này và chắc cụ Phạm Bá Vậy có ý đặt tên làng Minh Phú, làng Vân Hội gắn với đặc điểm khí hậu, địa hình và mong dân giàu sang, phú quý. Minh Phú: ý nói vùng đất sáng, biết khai phá sẽ phú quý, giàu sang. Có lẽ vì thế mà cụ Phạm Bá Vậy đặt tên làng là Minh Phú. Vân Hội: Vân là mây. Hội là nước chảy vào; dân bỏ người cai trị chạy trốn đi gọi là hội. Như vậy, có thể hiểu khi xưa vùng đất này mây mù che chở, bao phủ, có 3 ngòi nước chảy về và tâm trạng của dòng họ Phạm bỏ quê ra đi nên đã đặt tên làng Vân Hội. Khi cụ Phạm Bá Vậy cùng với một số người từ Hải Dương lên mở đất, khai sơn phá thạch vùng đất Minh Phú, Vân Hội xưa, tuy là cư dân vùng đồng bằng Bắc Bộ khi lên vùng đất mới nhưng vẫn còn giữ được nét sinh hoạt tín ngưỡng vùng quê Bắc Bộ nên dựng đình để dân làng cầu mong Thành Hoàng che chở, phù hộ mọi điều tốt lành cho dân làng. Như vậy, đình Minh Phú có thể khởi dựng vào những năm đầu thế kỷ XVIII, từ 1710 - 1725. Kiến trúc đình: đình 3 gian, hình chữ Nhất, cột gỗ to, lợp cọ, xung quanh lịa ván gỗ làm vách; bên trong đình có 3 ban thờ: 1 ban thờ ở gian chính giữa, 2 ban thờ ở hai đầu hồi; ban thờ chính giữa chia thành 3 cấp, có ngai thờ, hạc đồng, ống hương… và nhiều bát nhang. Chùa Minh Phú - “Minh Phú tự”: Người Việt có quan niệm “đất vua chùa làng”, "trẻ vui nhà, già vui chùa”, là cư dân nông nghiệp vùng Trung du và đồng bằng Bắc Bộ, ngoài đời sống văn hóa tín ngưỡng - tâm linh bản địa, còn ảnh hưởng của Đạo Phật từ lâu đời, sâu rộng đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, nên khi đến định cư vùng đất Vân Hội xưa, do nhu cầu tín ngưỡng - tâm linh nhân dân đã xây dựng chùa. Ngày 13/6/2016, Bảo tàng tỉnh Yên Bái đã đào thám sát 2 địa điểm thôn 6, xã Vân Hội, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái. Qua đào thám sát có thể nhận thấy từ khu vực chân đồi đến đỉnh đồi đều phát hiện được các hiện vật khảo cổ học giai đoạn lịch sử phong kiến. Hiện vật thu được trong hố thám sát chủ yếu gồm 02 nhóm chính là mảnh sành và mảnh gốm men. Mỗi nhóm lại được chia thành các kiểu loại nhỏ dựa vào tình trạng và chất liệu từng loại. Theo thạc sỹ Phạm Thanh Sơn, Viện Khảo cổ học - Viện Hàn lâm Khoa học Xã Hội Việt Nam: Trong cả 02 hố thám sát tại địa điểm thôn 6, xã Vân Hội, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái, loại hình di vật thu được ở các hố đều có sự tương đồng về chất liệu và niên đại khoảng từ thế kỷ XV - XVI. Dưới lớp cỏ đã thu được nhiều mảnh ngói đất nung, mầu đỏ nhưng mủn do nhiệt độ nung không cao. Tuy vậy, trong hố thám sát cũng phát hiện được lon sành có niên đại thuộc nửa thế kỷ XIV. Từ kết quả đào thám sát phát hiện di vật và đối chiếu với các tư liệu có thể xác định chùa Minh Phú là một ngôi chùa cổ khởi dựng từ cuối thời Trần, đầu thời Lê (cuối thế kỷ XIV, đầu thế kỷ XV). Đặc điểm của chùa Minh Phú: cột gỗ, lợp ngói, kiến trúc nhỏ, đơn giản, là thiết chế Phật giáo, nằm ngay trong làng Minh Phú xưa. Nguyên nhân chùa bị hỏng: Có thể kiến trúc nhỏ nên khi bị gió bão, lốc mạnh đã làm chùa Minh Phú đổ sập hoặc bị hỏa hoạn thiêu rụi. Đền Minh Phú - “Minh Phú Từ”: Đền Minh Phú, thời gian xây dựng cũng như thời gian, nguyên nhân bị hỏng không hoạt động chưa xác định được năm cụ thể. Qua đào thám sát phát hiện các di vật bằng gốm men và đồ sành tại khu vực Di tích. Theo thạc sỹ Phạm Thanh Sơn, Viện Khảo cổ học - Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam có thể khẳng định: các di vật có niên đại khoảng thế kỷ XV - XVI. Hiện nay tại xã Vân Hội có núi Mặn, theo tiếng Tày mặn ý nói ở trên núi rất thiêng, nếu ai làm nhà ở sẽ bị ma quỷ, thần thánh quấy nhiễu, nên hàng chục năm qua không có ai dám làm nhà trên núi Mặn. Các cụ già trong xã cho biết, xưa trên núi có một ngôi đền thờ Mẫu rất linh thiêng. Căn cứ di vật đào được tại thôn 6, xã Vân Hội có thể đền (miếu) Minh Phú khởi dựng vào thời Lê. Di tích đền Minh Phú là một thiết chế tín ngưỡng dân gian; khởi nguồn là một miếu nhỏ, qua quá trình phát triển về dân số và nhu cầu hoạt động tín ngưỡng, tâm linh của người dân nên chuyển thành đền. Những vị nhân thần được thờ tự - Nhân vật được thờ đình Minh Phú: Thờ “Tam vị thượng đẳng thần Cao Sơn Đại Vương”, đó là ba vị thần: Tản Viên Sơn Thánh (còn có tên gọi là Sơn Tinh), Quý Minh Đại Vương và Thần Cao Sơn (hay Cao Sơn Địa Vương). Tam vị Cao Sơn Đại Vương đã trở thành Thành Hoàng và được nhân dân Việt Nam thờ phụng từ lâu đời. - Nhân vật được thờ chùa Minh Phú tự: Thờ Phật. - Nhân vật được thờ đền Minh Phú “Minh Phú Từ”: Thờ Mẫu. “Mẫu” - là “Bà Mẹ Thiêng liêng” với quyền năng vô bờ bến. Về tín ngưỡng thờ Mẫu, người dân Minh Phú chịu ảnh hưởng của thờ Mẫu Âu Cơ và thờ Mẫu đệ Nhị Thượng Ngàn (đền Đông Cuông), Mẫu Thượng Thiên (Mẫu Liễu Hạnh), Mẫu Thoải. Những hiện vật lịch sử trong di tích - Các hiện vật đình Minh Phú: Lon gốm đất nung đường kính từ 8cm - 15cm, cao 12cm - 20 cm; 03 sắc phong của vua Khải định cho đình Minh Phú: Đạo sắc phong số 1; Đạo sắc phong số 2; Đạo sắc phong số 3. - Các hiện vật chùa Minh Phú tự: Không còn các hiện vật. - Các hiện vật đền Minh Phú “Minh Phú Từ”: Không còn các hiện vật. Phong tục lễ hội Lễ hội đình Minh Phú Trong năm tại đình diễn ra nhiều lễ hội, nhưng lễ chính vào ngày rằm tháng giêng và rằm tháng bảy. Trong dịp lễ rằm tháng giêng và tháng bảy, dân làng có tổ chức rước lễ từ đình Minh Phú vào đình Bằng Là (nay thuộc xã Đại Lịch, huyện Văn Chấn), để tưởng nhớ, tri ân công ơn của cụ Phạm Bá Vậy - tức Phạm Văn Giã người có công chiêu dân khai khẩn lập làng, lập mường. Và rước lễ từ đình Minh Phú vào đình làng Dọc để tưởng nhớ, tri ân công ơn của cụ Phạm Đình Lực (tức Phạm Bá Lực), người có công lập làng, khai phá làng Dọc, được vua giáng chỉ phong hàm “Tiền Kinh Khai Khẩn”, Thụy phong cấp 2 là “Thượng Ngàn Đại Sơn Nhân Thần”, năm Đinh Sửu niên hiệu Cảnh Hưng Thập Bát Niên thứ 18. Lễ hội Chùa Minh Phú Theo nghi lễ Phật giáo, lễ hội được tổ chức vào các ngày: - Tết Nguyên Tiêu - Tết Phật Đản - Tết Trung Nguyên Lễ hội đền Minh Phú: tổ chức vào các ngày: - Rằm tháng Giêng - Tết Thượng Nguyên. - Lễ thờ Mẫu (3/3 âm lịch) - Tết Trung Nguyên - Lễ Đức Thánh Trần (20/8 âm lịch) Trải qua thời gian, biến cố thăng trầm của lịch sử, chùa, đền, đình Minh Phú không còn, chỉ còn lại dấu tích và chỉ còn trong tâm thức của mỗi người dân Vân Hội và trong vùng. Nhưng với tinh thần tôn trọng lịch sử, tự hào dân tộc, để truyền thống nối tiếp lịch sử không ngừng trong dòng chảy văn hóa Đại Việt, xã Vân Hội đã bảo quản giữ gìn nguyên vẹn 3 đạo sắc phong của vua Khải Định, thường xuyên giáo dục lịch sử truyền thống văn hóa cho các thế hệ. Đặc biệt thực Nghị quyết Trung ương 9 (khóa XI) về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”, xã Vân Hội đã ban hành Nghị quyết, kế hoạch về lập hồ sơ xếp hạng di tích chùa, đền, đình Minh Phú nhằm phục dựng bảo tồn và phát huy giá trị di tích, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là phát triển du lịch văn hóa tâm linh gắn với du lịch văn hóa cộng đồng sinh thái, đồng thời đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của nhân dân trong và ngoài địa phương. Năm 2016, xã Vân Hội đã cùng với Bảo tàng, Trung tâm quản lý Di tích và Phát triển du lịch tỉnh đào, tham sát, xác định các tầng văn hóa, sưu tầm, nghiên cứu lập hồ sơ khoa học di tích và quy hoạch 18.967,5m2 đất để phục dựng lại di tích chùa, đền, đình Minh Phú. Do đó, Ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái đã công nhận chùa - đền - đình Minh Phú, xã Vân Hội, huyện Trấn Yên là Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh. Ngày 15/7/2016, Ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái ban hành Quyết định số 1419/QĐ-UBND công nhận chùa - đền - đình Minh Phú, xã Vân Hội, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái là Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh. Ths Nguyễn Thy Ngà: tổng hợp Cổng thông tin điện tử Yên Bái Trở về đầu trang Tam Thánh Tản Viên thời Hùng Vương điểm thờ phụng 0 Tổng số: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10