Di tích Đình Ngòi A, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái
Di tích đình Ngòi A, xã Ngòi A, huyện Văn Yên, ngoài việc
thờ Đức thánh Tản Viên, Đình còn thờ thêm hai thủ lĩnh tham gia lãnh đạo cuộc
khởi nghĩa Giáp Dần năm 1914 là: Phùng Trường Minh và Hoàng Minh Giám.
Lễ dâng hương tại Đình
Di tích Đình Ngòi A cách trung tâm thị trấn Mậu A (Văn Yên)
2km, cách thành phố Yên Bái 41km. Để tới Di tích có thể đi theo các tuyến sau:
- Đường bộ: Từ thành phố Yên Bái theo đường tỉnh lộ 151 tới
thị trấn Mậu A, rẽ phải theo đường Mậu A - Tân Nguyên khoảng 2km là tới Di
tích.
- Đường sắt: Theo tuyến Hà Nội - Lào Cai xuống ga Mậu A,
theo đường thị trấn Mậu A - Tân Nguyên khoảng 2km là tới Di tích.
Lịch sử Di tích:
Di tích đình Ngòi A, xã Ngòi A, huyện Văn Yên, ngoài việc
thờ đức thánh Tản Viên, Đình còn thờ thêm hai thủ lĩnh tham gia lãnh đạo cuộc
khởi nghĩa Giáp Dần năm 1914 là: Phùng Trường Minh và Hoàng Minh Giám.
Ngôi đền có từ lâu đời, lúc đầu được dựng ở giữa khu rừng.
Tháng 2 năm 1886, sau khi làm chủ được Hưng Hoá, quân đội viễn
chinh Pháp do tướng Gia Mông chỉ huy đánh chiếm vùng thượng lưu sông Thao, tiến
vào phòng tuyến phía Nam Yên Bái. Sau khi mất Hưng Hoá, Nguyễn Quang Bích và
Nguyễn Văn Giáp rút về lập căn cứ ở vùng sông Thao.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, đình Ngòi A được chọn là
một trong những điểm tập kết của bộ đội, dân công ta trước khi tiến quân tiêu
diệt đồn Pháp ở Đại Bục, Đại Phác, đồn Gióm (chiến dịch sông Thao năm 1949) và
giải phóng Nghĩa Lộ (chiến dịch Tây Bắc 10 năm 1952).
Năm 1965 - 1968 giặc Mỹ leo thang bắn phá miền Bắc, để xoá mục
tiêu, ban quản trị hợp tác xã cho dỡ Đình. Gia tộc mo đình Hoàng Đình Học thu
gom đồ thờ đem về làng Chiềng lập miếu thờ. Năm 2007, đình Ngòi A được UBND xã
dựng lại với ba gian nhà lá có chuôi vồ.
Đình Ngòi A nằm quay mặt ra hướng Tây Nam, trên mặt bằng tổng
thể chia làm 2 khu vực rõ rệt. Khuôn viên đình Ngòi A nhỏ, hẹp, trước cửa là
hai cây hoa đại lớn, tán cây tỏa bóng khắp sân Đình. Khu kiến trúc chính có diện
tích 62m2 gồm: Một toà nhà 4 gian là 3 gian Đại bái và một gian hậu cung, được
kết cấu theo lối chữ Đinh, kiến trúc gỗ truyền thống.
Tượng và không gian thờ tự gồm:
+ Toà Hậu Cung: Đây là nơi chiếm vị trí cao nhất gồm 3 cỗ thờ
Cao Sơn Đại Vương, được sơn son thiếp vàng.
+ Đại Bái: Gồm ba gian, sát với góc tường phía bên phải,
ngay hướng đi vào hậu cung là bàn thờ cụ Phùng Trường Minh và cụ Hoàng Minh
Giám. Vị trí chính giữa là ban công đồng.
Đình Ngòi A vốn là một trong những ngôi đình cổ có từ lâu đời
ở Yên Bái. Kiến trúc Đình hiện nay hoàn toàn mới, được kết cấu theo kiểu chuôi
vồ. Ngoài bệ ngai và bát hương đồng còn sót lại từ Đình cũ, còn lại những đồ thờ
tự khác đều là do dân làng tự mua sắm mới để thờ tự.
Đình Ngòi A còn bảo lưu nhiều sinh hoạt văn hoá đặc sắc, gắn
với các hoạt động của cư dân nông nghiệp, mang đậm nét sắc thái của phong tục tập
quán bản địa, Di tích Đình là niềm tự hào của bà con nhân dân huyện Văn Yên nói
riêng và của tỉnh Yên Bái nói chung.
Đền Đại An, xã An Thịnh, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái
Địa điểm Di tích:
Cách trung tâm thị trấn Mậu A khoảng 1 km, qua cầu Mậu A bắc
qua Sông Hồng, đi theo tuyến đường An Thịnh - Mỏ Vàng 200 m là đến di tích Đền
Đại An. Đền Đại An là một trong những ngôi đền cổ, nằm dọc theo tuyến thượng
lưu Sông Hồng, đền còn nguyên giá trị về văn hoá lịch sử và là điểm đến của du
khách thập phương trong hành trình du lịch văn hóa tâm linh trên địa bàn huyện
Văn Yên.
Lịch sử Di tích:
Khởi thủy đền Đại An là ngôi Đình cổ của người Tày Khao có
tên là Đình Bục, thuộc thôn Bục, xã Đại Bộc, tổng Yên Phú, huyện Trấn Yên (nay
là xã An Thịnh, huyện Văn Yên). Đình Bục được dựng lên vào khoảng đầu thế kỷ XIX
thờ tam vị Sơn Thần là Sơn Tinh, Cao Sơn và Quý Minh Đại Vương.
Theo tín ngưỡng thờ phụng của nhân dân vùng núi phía bắc,
tam vị Tản Viên Sơn Thần là hậu duệ của Lạc Long Quân và Âu Cơ, tức em của Hùng
Vương. Với sự ngưỡng mộ và niềm khát vọng làm chủ thiên nhiên, khai phá các
vùng đất và dựng nước, nhân dân nơi đây lập Đình thờ phụng.
Đầu năm 1940 khi các cư dân miền xuôi di cư đến khai phá và
sinh sống, xuất hiện sự giao thoa giữa cư dân bản địa và cư dân vùng khác, đình
Bục đã rước chân nhang từ đền Đông Cuông về thờ tự. Để phù hợp với việc thờ tự,
đình Bục dần dần chuyển sang thành đền, sau lấy tên là đền Đại An.
Như vậy Đền Đại An chính là thờ vọng Mẫu Thượng Ngàn. “Vọng”
có nghĩa là “Nhìn, hướng lòng về, tin tưởng, trông chờ”. Do đường sá xa xôi cách
trở, đi lại khó khăn, người dân nơi đây lập bàn thờ vọng Mẫu Thượng Ngàn thể hiện
lòng biết ơn đến các vị Thánh có công khai phá lập bản, lập làng, có công với đất
nước.
Đền Đại An trong những năm gần đây đã được tu sửa và xây dựng
khang trang, nhưng vẫn giữ được nét đặc trưng của một ngôi đền cổ với lối kiến
trúc xưa, cùng những hiện vật cổ được trưng bày nơi đây.
Tại đây, trong những ngày lễ báo hiếu, đại lễ Vu Lan, đại lễ
Phật đản cũng được tổ chức long trọng thu hút đông đảo người dân, du khách tham
gia. Ngoài những lễ hội được tổ chức, đền Đại An cũng là nơi thu hút nhiều du
khách thập phương trong hành trình du lịch tâm linh về chiêm bái, cầu lộc, cầu
tài.
Đây cũng là hoạt động mang ý nghĩa giáo dục truyền thống lịch
sử, văn hoá sâu sắc, giúp các thế hệ xã An Thịnh, huyện Văn Yên nói riêng và tỉnh
Yên Bái nói chung hôm nay và mai sau tự hào về quê hương đất nước và luôn biết
hướng về cội nguồn dân tộc.
Đền Đại An còn là niềm vinh dự và là niềm tự hào của Đảng bộ
và nhân dân xã An Thịnh về truyền thống lịch sử văn hóa dân tộc, địa phương có
một di sản văn hóa quý báu cần được bảo tồn và phát huy giá trị của Di tích
trong sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc.
Di tích lịch sử đền Đại An là điểm đến của khách thập phương
trong hành trình du lịch tâm linh về chiêm bái, cầu lộc, cầu tài, để những người
con quê hương hướng về nguồn cội, tri ân công đức các bậc tiền nhân.
Từ đó có ý nghĩa giáo dục truyền thống lịch sử, văn hoá sâu
sắc, giúp các thế hệ xã An Thịnh nói riêng và huyện Văn Yên nói chung hôm nay
và mai sau nâng cao ý thức bảo tồn và phát huy các giá trị lịch sử.
Ngày 4/7/2013, Ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái ban hành Quyết định
số 790/QĐ-UBND công nhận đền Đại An, xã An Thịnh, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái
là Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh.
Đình Lương Nham, phường Yên Thịnh, thành phố Yên Bái, tỉnh
Yên Bái
Di tích lịch sử - văn hóa đình Lương Nham, phường Yên Thịnh,
thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái., còn được gọi là Đình Trắng.
Đình Lương Nham (Đình Trắng) ở phường Yên Thịnh, thành phố
Yên Bái, tỉnh Yên Bái. Đình Lương Nham cách trung tâm thành phố Yên Bái 4 km.
Lịch sử Di tích
Theo như các cụ cao niên kể lại thì Đình Lương Nham trước
kia đặt ở khu Đồng Ngật, làng Lương Nham, tổng Bách Lẫm, huyện Trấn Yên, tỉnh
Yên Bái. Địa điểm này giáp với đất của xã Phú Thịnh (huyện Yên Bình hiện nay),
cách vị trí hiện nay khoảng 2 km về phía Đông Nam.
Tổng diện tích quy hoạch của Đình là 25.424,6m2. Trong đó,
diện tích khu vực 1 là: 617,8m2, diện tích khu vực 2 là: 24.806,8m2. Khu vực 2
của Đình Lương Nham có phía Bắc giáp tràn ruộng Đồng Cút, phía Nam giáp đường
7C, phía Đông giáp đường Lương Yên.
Đình Lương Nham kết cấu hình chữ nhất quay theo hướng Nam, 4
xung quanh là vườn của Đình. Đình có 3 gian, được xây bằng vữa tam hợp (mật,
cát và vôi), lợp ngói đỏ. Mỗi gian có diện tích là 18m2, cung thờ được thiết lập
ở gian trong cùng hướng mặt ra cửa chính.
Ban thờ được phân cấp
tam tòa, tòa trên cùng thờ 3 vị Thánh vương là: Đột Ngột Cao Sơn Thánh Vương,
Cao Sơn Bảo Hưng Thánh Vương, Cao Sơn Nông Cả Thánh Vương. Tòa giữa thờ tam vị
đại vương: Thạch Linh Đại Vương, Thổ Lệnh Đại Vương, Hồng Dũng Đại Vương. Tòa
dưới cùng thờ Thái tử Nguyễn Công Rước và công chúa Quế Hoa. Ngoài ra, ở phía
bên phải hậu cung thờ Đức Thánh Trần và bên dưới tòa thứ 3 là bát hương sơn thần.
Theo thần sắc của Đình cho biết, Đình Lương Nham là nơi thờ
8 vị đại vương làm Thành Hoàng. Địa điểm thờ tại khu Đồng Ngật, trang Lương
Nham, châu Quy Hóa, trấn Hưng Hóa.
Theo thần tích của Đình thì các vị: Đột Ngột Cao Sơn Thánh
Vương, Cao Sơn Nông Cả Đại Vương, Cao Sơn Bảo Hưng Đại Vương là bậc Thánh
vương. Hai vị Thạch Linh Thần Đại Vương và Thổ Lệnh Thần Đại Vương là bậc tôn
thần.
Hoàng đế chuẩn cho các vị phụ lão khu Thượng Cát, trang
Lương Nham, Động Bách Lẫm, châu Quy Hóa, quận Gia Hưng phụng thờ 5 vị thần
trên.
Thần tích chép lại rằng: Cho đến đời thứ 17 là Hùng Nghị
Vương làm vua. Thánh vương nhân một ngày nhàn rỗi, tuần du vùng núi Tam Đảo, gặp
được một nàng Tiên nữ tên là Quế Hoa Xuân Dung. Thánh vương đưa nàng về kinh
thành và lập nàng làm người đứng đầu cung phi trong hậu cung.
Một đêm vào ngày mùng 2 tháng 2 năm Quý Hợi, tiên nữ mộng thấy
thần nhân đưa cho 2 quả đào, nàng nhận lấy, từ đó nàng mang thai. Tới ngày 10/2
năm Giáp Tý nàng sinh một đứa trẻ có diện mạo phi thường, hình dung quý phái,
thiên chất kỳ dị, vẻ đẹp hơn người cho nên đặt tên là Thạch Linh.
Sau đó 4 năm, vào ngày 11/8 năm Đinh Mão, nàng lại sinh ra một
người con diện mạo đẹp đẽ, cho nên đặt tên là Thổ Lệnh. Hai ông đến tuổi trưởng
thành, tài kiếm văn võ, thông tuệ trực đoán cao minh.
Thời bấy giờ, trong nước có loạn, nhà vua bàn luận với văn
võ bá quan cùng nhất trí cử hai ông đánh giặc. Triều đình phong tước cho hai
ông là Lạc Tướng, Bồ Chính, lãnh 5 vạn quân đi giao chiến.
Hai ông chiến thắng trở về. Hoàng đế rất vui mừng, giao quyền
cho hai ông coi giữ các trang ấp thuộc châu Quy Hóa. Hai ông coi giữ châu Quy
Hóa trong thời gian 7 năm, các trang ấp đều bình yên, thanh tĩnh. Đến ngày
11/11 năm Giáp Ngọ, hai ông không bệnh tật gì mà qua đời. Quân sĩ dâng sớ lên
triều đình, rồi đưa di hài ông về thang mộc ấp, thuộc kinh thành Phong Châu để
mai táng.
Đến ngày mùng 10 tháng Giêng năm Bính Thân, Vua Hùng hội triều,
luận công thưởng tước, tri điện bộ Lễ nhận sắc phong thần đưa về tới trang
Lương Nham, động Bách Lẫm, châu Quy Hóa phụng thờ các vị.
Thần tích kể tiếp: Vào thời 18 đời Hùng Vương truyền đến đời
Hùng Duệ Vương, ở đạo Sơn Nam Thượng (vùng Hưng Yên, Hà Nam và một phần Hà Nội
ngày nay), có 1 người tên là Phúc, vợ là Nguyễn Thị Thanh sinh được mọt người
con trai vào giờ Dần, ngày 10 tháng Giêng năm Nhâm Ngọ.
Người con có thân thể dung nhan khác thường, đặt tên là Hồng
Dũng. Lớn lên Hồng Dũng là chàng trai văn võ toàn tài. Vào thời gian này, Thục
Phán tiến đánh nước ta, Tướng công Hồng Dũng tâu với nhà vua xin đi trấn giữ tại
địa đầu khu Đồng Ngật, trang Lương Nham, châu Quy Hóa, trấn Hưng Hóa - Sơn Tây.
Quân giặc thua chạy tan tác, ta thu được nhiều lương thực và
khí giới. Khi ông mất, người dân khu Đồng Ngật, trang Lương Nham tự nguyện dựng
miếu thờ phụng Tướng công.
Thần tích còn ghi chép về 1 vị là Âm thần, 1 vị là Dương thần
dưới triều Hậu Lý, đời Vua Lý Trung Tông như sau: Vào thời gian này nhà Tống
xâm lược nước ta, Tướng công Nguyễn Công Rước xin cầm quân đi bảo vệ biên thùy ở
khu Đồng Ngật, trang Lương Nham, châu Quy Hóa, trấn Hưng Hóa - Sơn Tây.
Tới đây, đêm nằm mộng thấy một tiên cung phụng chiếu mệnh của
Thiên đình, mắt phượng mày ngài, xuân sắc tự xưng là hậu duệ của Hùng Vương, tự
nguyện âm phù giúp tướng công trừ giặc.
Từ đấy, Tướng công
giao chiến trận nào chiến thắng trận đó. Khi ông mất nhân dân khu Đồng Ngật,
trang Lương Nham phụng thờ 1 vị Dương thần, 1 vị Âm thần là Thái tử Nguyễn Công
Rước và Quế Hoa liệt nữ trinh thục công chúa.
Theo như lời khai về việc thờ thần ở Đình Lương Nham của lý
trưởng xã Lương Nham Nguyễn Văn Đắc (khai ngày 1/6/1938) thì: Đình xưa đặt ở một
gò đồi, nổi lên giữa cánh đồng, trước lợp lá cọ, sau lợp ngói tây và có được sửa
sang lại.
Đình đặt ở khu Đồng Ngật, giáp xã Phú Thịnh - huyện Yên Bình
được coi là Đình cả và là nơi thờ cúng chung của toàn vùng. Khi hai xã Lương
Nham và Phú Thịnh mâu thuẫn, người dân Lương Nham sợ người Phú Thịnh chiếm Đình
làm nơi thờ cúng của riêng xã nên người dân Lương Nham chuyển Đình về vị trí hiện
nay. Lúc đó Đình cũng được xây dựng khang trang và lợp ngói mũi hài.
Thời gian chuyển là khi nào chưa rõ nhưng khi ông Nguyễn Văn
Đắc làm lý trưởng ở đây thì ngôi đình đã được xây ở vị trí này và ông đã cho
sơn sửa lại.
Cũng theo ông Nguyễn
Văn Đắc thì chỉ những người có chức sắc ở xã mới được vào trong Đình làm lễ,
người dân bình thường chỉ được đứng ngoài sân Đình dâng hương, phụ nữ không bao
giờ được vào hậu cung của Đình.
Trước ngày vào tế lễ những người làm lễ phải ăn chay, tắm gội
sạch sẽ, những người có tang không được vào dự lễ. Khi tế lễ những người hành lễ
đều phải mặc áo thụng, đầu đội mũ, đi hài chỉnh tề.
Đình Lương Nham rất linh thiêng và luôn có khách thập phương
đến chiêm bái. Nhưng vào những năm 1960 - 1965, với phong trào "chống mê
tín dị đoan" Đình vẫn không bị phá đi nhưng bị bỏ hoang, không ai thờ cúng
nữa, đồ thờ cúng trong Đình dần dần mất đi (trong đó có bát hương đồng hiện nay
đang được sử dụng tại Đình, đã mất 4 lần và được trả lại Đình vào năm 2004).
Vào cuối những năm 1970 của thế kỷ XX, Đình được dùng làm
kho cất vũ khí, hóa chất của sư đoàn không quân 377.
Đến đầu những năm 90 của thế kỷ XX, mái đình bị đổ xuống, số
vũ khí trên được chuyển đi. Tới năm 1996, chính quyền và nhân dân xã Tân Thịnh
cùng tu sửa lại Đình, chủ yếu là lợp lại mái đình làm nơi tế lễ chung của cộng
đồng.
Để đáp ứng nhu cầu tâm linh của nhân dân trong vùng, năm
2001 chính quyền và nhân dân phường Yên Thịnh đã cho tu sửa thêm phần nền và một
phần mái. Từ đó đến nay ngôi Đình vẫn được giữa nguyên dạng và là nơi tế lễ
chiêm bái của không chỉ cư dân phường Yên Thịnh, xã Tân Thịnh mà với rất nhiều
du khách thập phương.
Những vị nhân thần được thờ tự
Đình Lương Nham là nơi thờ 8 vị đại vương làm Thành Hoàng: Đột
Ngột Cao Sơn Thánh Vương, Cao Sơn Nông Cả Đại Vương, Cao Sơn Bảo Hưng Đại
Vương, Thạch Linh Thần Đại Vương, Thổ Lệnh Thần Đại Vương, Hồng Dũng Đại Vương,
Thái tử Nguyễn Công Rước và Quế Hoa liệt nữ.
Hiện vật lịch sử trong Di tích
Đình Lương Nham hiện còn lưu lại nguồn văn tự khá đầy đủ với
3 sắc phong, bản thần tích thần sắc Đình Lương Nham, tổng bách Lẫm, huyện Trấn
Yên, tỉnh Yên Bái đã được PGS. TS Nguyễn Minh Tường sưu tầm tại Viện Thông tin
khoa học xã hội thuộc Viện Khoa học xã hội Việt Nam, ngày 16/4/2004, ký hiệu:
TT - TS - FQ4018/ XXXVI, 13 và đã được dịch nghĩa.
Đây là nguồn tư liệu rất có giá trị của Đình. Đình
Lương Nham hiện còn 4 chữ Hán đại tự trên nóc Đình là: "Chiêm giả khởi
kính", nghĩa là: Ngưỡng vọng đức lớn của Thần, dấy lên lòng kính trọng. Và
một đôi câu đối còn lại 2 bên cửa Đình:
"An địa danh thành cơ chỉ cựu
Nham Sơn đặc lập đống lương tân"
Nghĩa là: Đất tốt thành doanh, còn dấu cũ
Núi Nham riêng lập, miếu thờ Thần.
Trong đình hiện nay không còn ngai của các vị Thành Hoàng
cũng như những đồ thờ cúng khác, chỉ còn lại 1 ống đựng sắc phong, 1 bệ ngai và
1 bát hương đồng là đồ cũ của Đình.
Phong tục lễ hội
Lễ hội Đình Lương Nham khá phong phú gắn với thần sắc thần
tích của các vị Thành hoàng được thờ trong Đình. Trong năm có 10 kỳ lễ cầu:
* Ngày mùng 10 tháng Giêng (âm lịch): Ngày lễ 5 vị đại
vương: Đột Ngột Cao Sơn Thánh Vương; Cao Sơn Nông Cả Đại Vương; Cao Sơn Bảo
Hưng Đại Vương; Thạch Linh Thần Đại Vương; Thổ Lệnh Thần Đại Vương. Lễ dâng có
gà, xôi và mâm ngũ quả.
- Ngày sinh của ngài Hồng Dũng Đại Vương (3 ngày). Hôm trước
làm cỗ chay, hôm sau có lợn đen, xôi, rượu và có ca hát.
* Ngày mùng 9 và mùng 10 tháng 2 (âm lịch): Ngày sinh Thạch
Linh Thần Đại Vương. Cỗ có lợn đen, xôi, bánh ngon 3 loại (bánh dày, bánh
trưng, bánh đậu xanh), có mâm ngũ quả và có ca hát.
* Ngày mùng 10 tháng 5 (âm lịch): Ngày mất của Hồng Dũng Đại
Vương (2 ngày). Hôm trước có gà, hôm sau có trâu hoặc lợn, xôi, rượu.
* Ngày mùng 7 tháng 7 (âm lịch): Ngày tế hội đồng 5 vị đại
vương. Lễ có xôi, gà.
* Ngày mùng 10 tháng 8 (âm lịch): Ngày lễ Thánh Mẫu (công
chúa Quế Hoa) (2 ngày). Hôm trước làm cỗ chay (5 mâm), có các loại bánh đủ màu
sắc, hôm sau cỗ bàn, ca hát. Trang phục khi hành lễ tuyệt đối không được dùng
các màu: hồng, vàng, xanh.
* Ngày mùng 10 và 11 tháng 8 (âm lịch): Ngày sinh Thổ Lệnh
Thần Đại Vương. Cỗ có thịt lợn, thịt trâu, thịt bò, có ca hát.
* Ngày mùng 8 đến ngày 11 tháng 11 (âm lịch): Ngày hóa nhật
của 5 vị đại vương. Cỗ bàn tùy dụng.
* Ngày mùng 10 tháng 11 (âm lịch): Ngày tế hội đồng Thái tử
Nguyễn Công Rước và công chúa Quế Hoa (5 ngày), hôm trước làm cỗ chay, có bánh dày,
bánh trưng; hôm sau có thịt trâu, thịt lợn, có ca hát, các trò chơi, có rước cờ.
* Ngày 11 tháng 12 (âm lịch): Làm lễ thay mũ, áo, thay chiếu
cho 5 vị đại vương. Cỗ bàn tùy dụng.
Di tích đình Lương Nham là điểm lưu giữ và sinh hoạt văn hoá
cộng đồng, là nơi biểu hiện của lịch sử văn hoá dân tộc, phong tục tập quán, đời
sống tâm linh, đạo đức con người, thể hiện những ước mong của cả cộng đồng, là
sợi dây liên kết mọi thành viên chặt chẽ hơn trong đời sống xã hội hiện
nay. Do đó, đình Lương Nham, phường Yên Thịnh, thành phố Yên Bái đã được Ủy ban
nhân dân tỉnh Yên Bái công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh.
Ngày 7/12/2007, Ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái ban hành Quyết
định số 460/QĐ-UBND công nhận đình Lương Nham, phường Yên Thịnh, thành phố Yên
Bái, tỉnh Yên Bái là Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh.
Nguồn: Cổng thông tin Điện tử Yên Bái