Theo truyền thuyết và thần tích các đền ở các làng cổ trong huyện thờ các thần thời đại Hùng Vương (quốc gia Văn Lang, Âu Lạc, Nam Việt và Hai Bà Trưng), thì Vụ Bản có tới hơn ba chục danh thần, danh tướng của nhiều dòng họ được thờ phong ở 75 đền miếu.
Vụ Bản là huyện nằm ở phía Bắc tỉnh Nam Định, bên hữu ngạn hạ
lưu sông Hồng. Theo Địa chí tỉnh Nam Định (xuất bản năm 2003) thì đất Vụ Bản nằm
ở bộ Lục Hải thời Hùng Vương của quốc gia Văn Lang. Theo ngọc phả đền Đồng Móng
danh tướng ở làng Bảo Ngũ (xã Quang Trung) thì huyện Vụ Bản thời Hùng Vương có
tên là huyện Bình Chương.
Theo truyền thuyết và thần tích các đền ở các làng cổ trong
huyện thờ các thần thời đại Hùng Vương (quốc gia Văn Lang, Âu Lạc, Nam Việt và
Hai Bà Trưng), thì Vụ Bản có tới hơn ba chục danh thần, danh tướng của nhiều
dòng họ được thờ phong ở 75 đền miếu.
Các đền này được lập ở nhiều làng rải từ miền thượng đến miền
trung và miền hạ huyện Vụ Bản. Có thể nói huyện Vụ Bản là một nơi tập trung nhiều
nhất, sầm uất nhất việc thờ các vị thần thời đại Hùng Vương của tỉnh Nam Định,
nếu không muốn nói cả miền châu thổ sông Hồng.
1. Thần Nông và Hậu Tắc
- Về Thần Nông, người
dân Vụ Bản không hiểu rõ đó là vị thần tổ của người Việt mà chỉ coi như Thần
Nông là vị thần nông nghiệp, có công dạy dân trồng lúa, nên làng nào cũng có tục
lễ thượng điền hoặc hạ điền và đều lập hương án thờ cúng Thần Nông trước khi
làm lễ xuống đồng; coi Thần Nông là vị Tiên Nông, ông tổ của nghề nông.
- Hậu Tắc: Thuộc họ Hồng
Bàng, vua Việt Thường sai đem chim trĩ trắng sang nhà Chu ở phương Bắc giao lưu
đổi lấy hạt giống ngũ cốc đem về phát triển sản xuất để đất nước được dồi dào sản
vật, dân được ấm no. Ở Vụ Bản có 7 làng miền Thượng huyện thuộc xã Hành Cung cũ
(nay thuộc xã Minh Thuận) lập đền thờ chung với thành hoàng làng. Riêng làng
Phú Lão có miếu thờ riêng, xây thành một tòa lầu cao 5 bậc có thần vị thờ gọi
là Tiên Nông xã tắc đế thần.
2. Đền thờ ba vị Hoàng tử đời Hùng: Bảy
làng thuộc xã Cố Đế cũ, tên Nôm gọi là Kẻ Đế (nay thuộc xã Đại Thắng) cuối miền
hạ huyện Vụ Bản đều có đền thờ chàng Cả. (Bắc Hải) thờ chàng Hai (Tây Hải) và
chàng Ba (Bắc Nhạc) Đại vương. Tương truyền, ba vị đại vương đều là hoàng tử của
vua Lạc Long Quân và Âu Cơ. Bắc Hải và Tây Hải cai quản miền biển Đông, còn Bắc
Nhạc Đại vương cai quản vùng đất bộ Lục Hải. Như vậy ba vị hoàng tử này đều là
anh em với vua Hùng thứ nhất. Bảy đền thờ này đều nguy nga lộng lẫy, còn lưu giữ
thần phả và nhiều sắc phong.
3. Hoàng tộc đại vương và quan lang Hoàng
Đào.
Ở làng Hổ Sơn (xã Liên Minh) Hoàng tộc đại vương, con quan lệnh
doãn huyện Bình Chương bộ Lục Hải (Vụ Bản, Nam Định ngày nay). Đời vua Hùng thứ
6 (Hùng Huy Vương) đã đi tuần thú đến làng Giá, có núi đất ven biển, thấy có
con hổ trong núi chạy ra, gặp xa giá nhà vua liền lùi lại, lủi vào rừng trốn mất.
Vua Hùng đặt tên cho là núi Hổ Phục, và làng Giá được đổi
tên là làng Hổ Sơn. Ở làng có quan lang Hoàng Đào có 7 chàng dũng sĩ đã bắt sống
được hổ nên dân gọi là “thất cầm mãnh hổ”.
Giặc Ân xâm lược nước ta, hoàng tộc đại vương và quan
lang Hoàng Đào cùng “thất cầm mãnh hổ” theo Phù Đổng Thiên Vương đánh giặc.
Giặc tan, hoàng tộc đại vương được vua Hùng cử làm bộ chủ bộ Hoài Hoan (Nghệ
Tĩnh ngày nay). Khi mất, dân lập đền thờ ở đầu núi Hổ, vua phong làm thành
hoàng làng. Giữa làng cũng có đền thờ quan lang Hoàng Đào và 7 dũng sĩ.
4. Anh em Bùi Ngọc Thành và Bùi Thị Hoa ở
Hổ Sơn (xã Liên Minh)
Theo Sơn Nam phong vật chí của Hà Tông Quyền thời Nguyễn,
thì vua Hùng Huy Vương đi tuần thú cùng Lục Hải, xa giá vừa đến một hòn núi đất
cây cối rậm rạp thì gặp một con hổ lớn nhảy vọt ra. Gặp xe giá nhà vua, hổ bèn
nhảy vọt vào rừng. Vua cho là điềm lành, hổ phải quy phục nhà vua, nên gọi núi
đó là núi Hổ Phục. Đêm đó vua nghỉ lại ấp Giá dưới chân núi, dân ấp tổ chức ca
hát, biểu diễn võ thuật để chào đón nhà vua, trong đó có 1 cặp đôi nam nữ múa
khiên, bắn cung rất giỏi. Vua vời đến hỏi chuyện, biết rằng đó là hai anh em
Bùi Ngọc Thành và Bùi Thị Hoa.
Vua hỏi chuyện nước, chuyện bản ấp, chuyện bảo vệ dân làng,
hai anh em đều đối đáp lưu loát, tỏ ra thông minh, nhanh trí. Nhà vua rất mừng
xin dân bản ấp cho đưa hai người về cung giúp việc nước.
Về đến kinh đô Phong Châu vua phong cho Bùi Ngọc Thành chức
“Tá phụ quốc sự”, ngày đêm cận kề với nhà vua để lo việc nước. Nàng Bùi Thị Hoa
được đưa vào cung cấm, ban cho chức “Cung nội huấn dưỡng”, chăm lo việc dạy dỗ,
huấn luyện võ thuật cho các mỵ nương và cung nữ trong cung.
5. Minh Gia thiên tử và Minh Tôn thiên tử
đời vua Hùng thứ 6 đánh giặc Ân.
Đền làng Hạnh Lâm thờ 2 vụ tướng Phù Đổng Thiên Vương đánh
giặc Ân (xã Hiển Khánh). Thần tích ghi rõ: Bộ chủ bộ Lục Hải là miêu duệ của
Hoàng tử thứ 8 của Lạc Long Quân, lấy bà Trần Thị Huệ ở Tức Mạc (Lộc Vượng,
Thành phố Nam Định hiện nay) làm chính phi. Hai vợ chồng đi tuần thú trong hạt
, đến làng Hạnh Lâm (xã Hiển Khánh), gặp nàng Nguyễn Thị Nghĩa lấy làm thứ phi.
Hai nàng sinh hai con trai, vợ chồng bộ chủ đưa 2 con ra mắt
Hùng Huy Vương, vua Hùng thứ 6. Vua Hùng cho là con cháu của vương triều Hùng,
nên đặt tên con của bà Huệ là Minh Gia Thiên Tử và con của nàng Nghĩa là Minh
Tôn Thiên Tử. Hai người con thông minh tài trí. Khi bộ chủ và 2 bà qua đời, vua
Hùng phong cho Minh Gia, Minh Tôn thay cha làm bộ chủ bộ Lục Hải.
Khi giặc Ân xâm lược nước ta, hai bộ chủ Minh Gia, Minh Tôn
đem quân theo Phù Đổng thiên tướng đánh quân Ân. Thắng trận, Phù Đổng bay về trời
ở núi Sóc. Hai vị cũng bay theo. Vua Hùng cho Hạnh Lâm lập đền thờ, phong 2 vị
là Minh Gia thiện tử và Minh Tôn thiên tử. Làng Hạnh Lâm còn có lăng mộ của 2
bà mẹ và miếu thờ tại rừng cấm đầu làng gọi là Phủ Lăng Bà.
6. Hoàng Tử Câu Mang, con vua Hùng thứ 17
(Hùng Nghị Vương) làng Môn Nha (xã Hiển Khánh) có đền thờ. Thần tích ghi: Hùng
Nghị Vương đi tuần thú miền Đà Bắc (Hòa Bình), gặp nàng Phạm Thị Phương xinh đẹp
lấy làm thứ phi.
Mấy năm sau, thứ phi họ Phạm sinh một hoàng tử tài giỏi, đặt
tên là Câu Mang. Khi Nghị Vương băng hà, Duệ Vương lên kế vị, thiên tai xảy ra
liên tiếp, lũ lụt hạn hán xảy ra liên tiếp xảy ra, nhà vua bèn sai Câu Mang đi
tuần thú trong thiên hạ, cầu đảo trời mưa phục hồi sản xuất cho nhân dân. Ông
được vua triệu về triều ban cho chức tước.
Duệ Vương già yếu, không có con trai nối dõi. Thục Phán nhân
cơ hội đem quân xâm lược. Vua triệu Tản Viên sơn thánh về triều cùng Mang Công
đem quân kháng chiến, thắng lợi trở về đến Bố Chính (Quảng Bình) ông hóa về trời.
Những nơi ông cứu hạn, chống lũ cho dân đều lập đền thờ, như làng Môn Nha (Vụ Bản),
Như Trác (Lý Nhân)…
7. Thần tích Câu Mang đại vương triều Hùng
Thần Câu Mang đời Hùng ở Nam Định, Hà Nam có hàng chục đền
thờ, nguồn gốc xuất xứ có khác nhau, có thần tích ghi con ông Cao Hạo, mẹ là
Trương Thị Vỹ (đền Hương Nghĩa, Minh Thuận), có thần tích lại ghi con ông Cao Tố
và bà Trương Thị Khánh (làng Bích, làng Khổng Trạch (ở Liên Bảo) nhưng công
tích phần lớn giống nhau, có tài bơi lội, làm quan triều Hùng Vương thứ 18, được
phong là Thủy tào phán sự, khi lụt lội xảy ra, Câu Mang thường được cử để giúp
dân chống lũ lụt, Câu Mang liền viết thư bắn xuống Thủy cung trách cứ Long
Vương, Thủy tề dâng nước lớn làm hại dân và xin rút nước để cứu dân.
Khi Thục chúa đem quân đánh, vua Hùng triệu ông về triều,
dùng Tản Viên Sơn Thánh đem quân đánh thắng. Khi Câu Mang qua đời dân các làng
được ông giúp đỡ chống thiên tai đều lập đền thờ.
8. Đền làng Vàng thờ Cao Hựu Đại vương:
Thần tích đền làng Vàng (Lập Vượng xã Hiển Khánh ghi rõ:
Cao Hựu là con ông Cao Hạnh và bà Hoàng Thị Khánh ở ấp Tang Ma (Bất Bạt,
Sơn Tây). Lớn lên, ông được học Hiên Đường tiên sinh, giỏi cả văn lẫn võ, trở
thành con người toàn tài. Vua Hùng mời ông ra làm quan phong là Tham tán quân vụ.
Khi Thục chúa đánh nước ta , vua Hùng sai Cao Hưu cùng Tản Viên Sơn Thánh đem
quân chống cự, đuổi giặc ra khỏi bờ cõi.
Cao Hựu được vua ban thưởng, phong làm Đốc bộ Sơn Nam (bộ chủ
bộ Lục Hải). Ông thường đi kinh lý trong hạt, khi đến vùng Lập Vượng, thấy đất
đai màu mỡ, dân tình thuần hậu, ông bèn dừng lại, lập hành cung, giúp dân mở
mang trang ấp.
Ông cho lập bến Nứa (Nứa Phường – Vụ Nữ) để dân thuận lợi
thuyền bè đánh cá, giao lưu. Ông chia đất trang Lập Vương làm ba thôn bờ sông .
Thôn chính (nay là làng Vàng, Lập Vương) mở chợ Vàng (Hoàng Thị) cho dân buôn
bán trao đổi sản phẩm, thôn Vân (nay là làng Man, Lập Thành) và thôn Thị (nay đều
thuộc xã Hợp Hưng) trở thành một vùng quê thịnh vượng ở miền thượng huyện.
Về già ông thường đi ngao du thiên hạ, khi leo núi Vũ Én
(Phú Thọ) ông hóa về trời. Dân làng Lập Vượng cả ba thôn đều lập đền thờ, tôn
là thành hoàng làng. Vua phong là Phù Vận Cao Hựu Đại vương.
9. Thiên Tề Đại vương Hoàng Vân
Làng Lập Vũ (xã Hợp Hưu) có đền thờ Thiên tề Đại vương Hoàng
Vân và miếu thờ bà mẹ là Hoàng Thị Hằng Nga. Thần tích có ghi: Bà Hoàng Thị Nga
là con ông Hoàng Công Đạt và bà Đào Thị Điền, vốn người ở Cẩm Giàng (Hải
Dương). Cha mẹ mất, năm 19 tuổi sang ở với cậu là Đào Công Tiệp.
Một hôm nàng nằm ở hoa viên mơ màng bỗng thấy mây vàng bay
xuống phủ lên người. Từ đó nàng mang thai. Bị nhân dân chê cười, nàng bỏ nhà ra
đi. Đến làng Lập Vũ (xã Hợp Hưng) thì nàng dở dạ, đành nghỉ lại trong một lều
quán ở chợ.
Nửa đêm, có thần nhân báo mộng cho dân làng phải đón nuôi một
người đàn bà mang thai một vị thiên tài xuất thế sau này cứu nước, giúp đời.
Dân làng tìm được nàng, đem về nuôi dưỡng. Nàng sinh ra một một cháu trai khỏe
mạnh, khôi ngô. Dân làng góp sức để nàng nuôi dưỡng con. Nàng đặt tên con là
Hoàng Vân.
Hoàng Vân lớn nhanh như thổi. Lớn lên, giúp vua Hùng Hiền
Vương. Vua Hùng thấy là người toàn tài, lại bơi lội giỏi nên phong là Thủy tào
phán sự, chỉ huy huấn luyện thủy quân. Lúc đó ở phía Nam có giặc Hồ tôn do tướng
Ma Thạch Kim cầm đầu đến đánh phá. Hoàng Vân được vua cử đem chiến thuyền chống
cự.
Thủy quân Hồ Tôn khá mạnh quân ta chiến đấu rất khó khăn. Hoàng
Vân vội cầu cứu Diêm La vương là Thủy đế. Diêm La Thủy đế đến cứu, Hoàng Vân
đánh tan được giặc Hồ Tôn. Hoàng Vân tâu vua việc Diêm La Thủy đế âm phù thắng
trận, vua cho làng Lập Vũ lập miếu thờ lộ thiên (không mái) phong là Diêm La Đại
vương thượng đẳng thần. Hoàng Vân được phong làm bộ chủ bộ Lục Hải.
Ông lập cung sở ở Lập Vũ, thường về đây nghỉ ngơi, giúp dân
mở mang trang ấp. Khi ông mất, dân lập đền thờ cùng với phủ Bà thờ mẹ , Vua
phong ông là Tề thiên đại vương.
Dân quý mến ông thường gọi là Hoàng Tề Đại vương. Thần tích
còn ghi Hoàng Vân chọn trong các họ của Lập Vũ (Phạm, Nguyễn, Trần, Hoàng, Vũ Đặng)
35 người làm gia thần thủ túc chỉ huy quân đánh giặc Hồ Tôn, nên sau này
tổ tiên các họ trên đêu được dân làng tôn kính, hợp tự tại đền.
10. Thần Bạch Mã Linh Lang.
Thần tính Đền Làng Đồng Thời (Mỹ Thuận, Mỹ Lộc trước thuộc
Vũ Bản) và làng Nhị Thìn (Tân Khánh), Duyên Hạ (Ninh Thuận, Vụ Bản) ghi rõ.
Bộ chủ Lục Hải là Hùng Thao lấy vợ người làng Đồng Thời là
Phạm Thị Tư, nằm mộng thấy thần Quảng Lai trông coi hồ Dâu Đàn (Hồ Tây) xưng là
con thứ hai Lạc Long Quân – Âu Cơ, xin đầu thai. Năm sau, bà tư sinh con trai đặt
tên là Linh Lang, vốn trở về làng Đồng Thời để nuôi con khôn lớn.
Năm mười bảy tuổi mẹ qua đời, Linh Lang được Vua Hùng triệu
về kinh đô phong làm đại tướng Thủy quân, cho đất Đồng thời làm thuộc ấp. Bộ chủ
Ai Lao, một tông phái của họ Hùng, thấy vua Duệ Vương già yếu, không con nối
dõi nên đem quân đến đánh. Duệ Vương sai Tản Viên Sơn thánh và Linh Lang đem
quân kháng cự.
Quân Thục thua to, Linh Lang được triệu về triều khen thưởng.
Nhưng thuyền đến hồ Dâu Đàn thì Linh Lang hóa thành giao long nhảy xuống hồ biến
mất. Quân báo về triều, vua thương tiếc phong là Bạch Mã Linh Lang Đại vương,
cho dân làng Đồng Thời lập đền thờ.
Linh Lang về đến thủy cung được phong là thần Long Đỗ trông
coi hồ Dâm Đàn. Bạch Mã Linh Lang được dân quanh hồ lập đền thờ. Thần đã cùng
Long Vương diệt thủy quái Hồ Ly chín đuôi trừ hại cho dân, và đã phá thuật yểm
bùa của Cao Biền thời nhà Đường, khiến cho Cao Biền nể phục, tôn tạo lại đền thờ
ở Hồ Tây cũng như ở làng Đồng Thời.
11. Thần Uy Lôi - Uy Linh ở Thương Linh
Thần tích đền Chung Linh làng Thương Linh xã Đại Thắng ghi
rõ sự tích 2 vị tướng họ Trần:
Đời vua Hùng Duệ Vương, ở làng Kim Tuyền huyện Giáp Sơn
(Kinh Môn, Hải Dương), có gia đình ông Trần Hinh, vợ là Lê Thị Thục, theo học
thầy địa lý thấy núi Yên Phụ có huyệt mả đẹp, nên đem hài cốt tổ tiên chôn ở
đó, có hòn đá đẹp làm điểm tựa giữa hai hồ nước.
Mộ phát nhưng phải xa quê. Ông Trần Hinh phải xuống miền ven
biển phía Nam kiếm sống, lúc đầu ở làng Cảo Linh (Qủa Linh, xã Thành Lợi) sau
gia đình sang đất Ngũ Ngư lập làng Thượng Linh (xã Đại Thắng), vừa đánh cá vừa
làm ruộng.
Trần Hinh sinh hai con đặt tên là Linh và Lôi. Linh Công và
Lôi Công lớn lên, trở thành hai chàng trai dũng mãnh. Nghe tin Tản Viên Sơn
Thánh là bậc kỳ tài, hai ông đến gặp kết bạn cùng về triều thi thố tài năng.
Vua Hùng phong chức tước. Linh Công được phong làm Linh Đài giám sát, Lôi Công
được phong làm Đô chỉ huy sứ.
Khi Thục Phán đem quân đánh Văn Lang, vua Hùng sai Tản Viên
Sơn Thánh và các tướng đem quân kháng cự. Linh Công và Lôi Công cùng đem quân
đánh thắng Thục Phán.
Về triều vua phong thưởng Linh Công làm Bộ chủ bộ Hoài Hoan,
Lôi Công làm bộ chủ châu Ái. Khi về già, hai ông trở về làng Thượng Linh hưu dưỡng,
dạy dân tiếp tục mở mang nghề đánh cá trên biển, cày bừa trồng lúa, trồng dâu
nuôi tằm. Lúc nhàn rỗi, hai ông rủ nhau ngao du thiên hạ.
Một hôm đến núi Thiên Nhận ở Kim Nhan (Nghệ An), ông Linh
hóa về trời. Lôi Công đưa linh cữu của anh về làng. Vua phong là Linh Sơn đại
vương và cho lập đền thờ.
Đúng năm sau, vào ngày giỗ Linh Sơn đại vương thì Lôi Công
cũng hóa về trời. Dân Thương Linh làm lễ mai táng và tâu vua. Vua Hùng phong là
Linh Uy Lôi đại vương và cho lập đền thờ. Trước đây hai vị đều có đền thờ
riêng.
Ngày nay, dân làng Thương Linh và Đông Linh đã tôn tạo lại đền
cũ, thờ chung hai vị cùng với hậu duệ họ Trần của hai ngài là tướng quân Trần
Phối (Báo) Đạo, tướng của Hai Bà Trưng, đã từng đánh thắng quân Hán, được Trưng
Vương phong làm Trấn thủ đạo Nhật Nam. Đền này có tên là đền Chung Linh ở làng
Thượng Linh đã được nhà nước xếp hạng cấp tỉnh.
Một điều rất vui mừng là năm 2018, căn cứ vào thần phả, họ
Trần và các cụ làng Thương Linh (xã Đại Thắng) phối hợp với tiển ban lịch sử thời
đại Hùng Vương của họ Trần Việt Nam, đã về thăm lại làng Kim Tuyền, lên núi Yên
Phục, đã tìm thấy ngôi mộ của tổ tiên cụ Trần Hinh đúng là nằm dưới hòn đá lớn,
hai bên có hai hồ nhỏ y như miêu tả của thần phả.
Mọi người đều làm lễ kính ngưỡng vị thần tổ của mình và hân
hoan trước sự việc ăn khớp giữa truyền thuyết ghi trong thần phả với thực tế,
càng tin tưởng ghi thần phả đã ghi chép đúng sự thật đã diễn ra cách đây hơn
hai ngàn năm.
12. Tam vị Sơn Thánh: Tản Viên Cao Sơn Quý Minh
Vụ Bản có hơn chục làng thờ, Ý Yên cũng có chừng đó. Việc thờ
ba vị Sơn Thánh khá phổ biến ở đất Vụ Bản, Ý Yên, nhưng các làng xưa chỉ có miếu
thờ Tản Viên Sơn Thánh (nay hầu như bị phá hết, như ở Bích Cốc, Đắc Lực vv…).
Chỉ có các làng ven chân núi như núi Phương Nhi (Ý Yên), núi
Ngăm là có đền thờ của ba vị Sơn Thánh, có thần vị và thần phả mà sự tích
chung ở núi Tản thờ Tản Viên, Cao Sơn và Qúy Minh. Thần tích đền Đông Mão xưng
Lư xưa (Yên Lợi, Ý Yên) và Ngăn Thượng (xã Minh Tân, Vụ Bản) về cơ bản giống
nhau đều nói hai vị thần Cao Sơn và Qúy Minh đem quân vào Châu Hoan tiêu diệt
thủy quân của nhà Thục.
Hai ông qua làng Giáp Nhất Đông Mặc (Yên Lợi, Ý Yên) lấy 25
người làng làm gia thần thủ túc chỉ huy quân vào châu Hoan, đánh tan thủy quân
của nhà Thục. Các đạo khác do quân của Tản Viên sơn thánh đánh tan.
Quân thù đại bại. Thắng lợi trở về, ba vị sơn thánh được vua
Hùng phong thưởng cho 3 ông tìm đất làm thực ấp, lập sinh từ. Có đến hơn
160 nơi có sinh từ là nơi các ông đã từng qua lại giúp dân làng chống dịch bệnh,
chống thiên tai hạn hán hay lũ lụt, trong đó có làng Đông Mặc Xung Lư xưa và
Ngăm thượng. Khi ba ông về trời, dân các làng có hành cung, sinh từ của
ba ông đều lập đền thờ hay miếu thờ.
Đền thờ làng Xung Lư xưa (Yên Lợi) có vọng lâu nhìn về hướng
Bắc, nơi có núi Tản ba người về trời. Đền thờ ba vị sơn thánh ở núi Ngăm được
tôn tạo khang trang lưng chừng núi phía Tây giữa cây cối um tùm, râm mất, có đường
leo lên đền, bậc thang quanh co, ngoạn mục, trước mặt có giếng Ngọc bên bờ sông
Sắt (sông Ba Sát) tạo nên cảnh quan sơn thủy hữu tình.
Nơi đây đang trở thành công viên du lịch sinh thái nổi tiếng
của đất Vụ Bản. Làng PhúLão (Minh Thuận) cũng có đền thờ Tản Viên Sơn Thánh, có
thần tích nhưng đã được tóm lược.
13. Thần Tam Bành và thần Đế Thích.
Đây là hai vị thần xuất hiện thời Hùng Vương dựng nước, mang
nặng tính chất huyền thoại nhưng lại rất gắn bó với đời sống của cư dân Vụ Bản,
có ấn tượng sâu sắc trong tâm trí và tâm linh của người dân Vụ Bản bao đời nay.
- Thần Tam Bành hay Tam
Danh thần tướng có hồn, hay thần Tam Ranh (ba vị thần trẻ con)
Theo thần tích đền làng Đồng Mông thuộc giáp nhất Bảo ngũ
(xã Quang Trung, do cụ Bùi Xuân Dụng chép lại bằng chữ Hán và dịch ra chữ
Quốc ngữ)
Thời Hùng Thuận Vương, vua lấy người con gái họ Bằng ở làng
Đồng Mông, sinh ra một bọc có ba người con trai. Một người sinh ra không có mặt,
một người sinh ra không có tay, một người sinh ra không có đầu (có người giải
thích chỉ là một cục thịt tròn).
Thuận Vương trông thấy thế, sợ hãi đem chôn ở ba cái giếng:
giếng đầu tiên ở Đồng Mông (sau lập đền), giếng thứ hai ở bên cạnh đường sang
làng Xứng, giếng thứ ba ở cánh đồng cát ở phía Bắc làng Vân Cát (Kim Thái). Một
trăm ngày sau, ba vị biến hóa khôn lường, làm nhiều chuyện kỳ lạ, thậm trí đánh
đuổi cả thành hoàng các đền hay sách nhiễu dân, lật úp bát hương ở đền của họ.
Thuận Vương phải xa giá xuống trang Đồng Mông, thuyết phục
ba vị, cho thấy rõ ba vị là thần Tam Thế Đô ba vị là Nguyễn Sừng, Nguyễn Sở và
Nguyễn Sắt là Tam Danh thần tướng cô hồn, chỉ huy âm linh, luôn chống lại ma quỷ
sách nhiễu dân, giúp đỡ dân làng gặp khó khan. Thuận Vương cho làng lập ba miếu
thờ nơi thần ở.
Dân làng Bảo Ngũ lập đền thờ, gọi là đền Đồng Mông Danh Tướng
(có người gọi là Đồng Mông Ranh tướng là ba tướng trẻ con). Nhiều huyền thoại
được truyền tụng trong dân Vụ Bản về ba vị tướng trẻ này. Thần hay nổi giận phá
phách những đền có các vị hay sách nhiễu dân, làm nhiều điều oan trái,
Dân gọi ba vị thần đó làTam Bành.
Thần Tam Bành khi nổi giận thường phá phách được gọi là nổi
cơn tam bành). Sau này, đời Lê Trung Hưng , Trần Toàn dựng Nội Đạo tràng,
tôn Tam Danh thần tướng làm tổ sư cùng với thần Độc Cước và Huyền Đàn (cả 3 vị
này Vụ Bản đều có đền thờ).
- Thần Đế Thích: Thần Đế
Thích ở Vụ Bản có 8 đền thờ: xã Lương Kiệt và Hào Kiệt (Liên Minh) có 7 đền thờ
(làng Tâm, làng Tiền, làng Thượng của Lương Kiệt và bốn giáp của Hào Kiệt),
làng Tổ Cầu có đền thờ chính, gọi là Đình Ba Xã. Thần tích ở đền Tổ Cầu(xã Liên
Bảo) ghi sự tích về vị thần Đế Thích. Khi miền hạ Vụ Bản đang là biển, miền
trung Vụ Bản là bờ biển có dân ở, làm nghề đánh cá, có cửa biển Côi Sơn (Côi
Sơn Hải Khẩu). Dân đi biển thường bị bọn thủy khấu cướp phá.
Bọn thủy khấu (giặc nước) này hoành hành dữ dội ở ven biển
và các ngòi lạch, không cho dân đánh cá. Dân tập trung kêu cứu Ngọc Hoàng bèn
sai thần Đế Thích Diêm La Vương (thần vị ghi là thế nhưng vua Tự Đức có có sắc
cho đó là 2 vị thần Đế Thích và Diêm La Vương) xuống trần đi tuần thú cai quản
miền sông nước.
Đế Thích là tiên đánh cờ trên thiên đình, khi cưỡi lân xanh
xuống núi Gôi, ông lập bàn cờ đá trên đỉnh núi, dựng lâu đài quán các để ở,
ngày ngày cưỡi lân xanh đi tuần thú ven biển, dẹp bọn thủy khấu, dân trong vùng
yên ổn làm ăn. Lúc rỗi rãi, Đế Thích rủ tiên xuống đỉnh núi Gôi đánh cờ. Một
hôm say sưa đánh cờ quên việc đi tuần thú.
Bọn thủy khấu tập trung đến cướp phá. Đế Thích tỉnh dậy vội
đánh lại chúng, nhưng mệt mỏi quá, bị chúng chém rơi đầu. Đế Thích ôm đầu cưỡi
lân xanh chạy dọc bờ biển qua Lương Hào Kiệt (thuộc Liên Minh) đến tổ cầu (thuộc
xã Liên Bảo), gặp bà hàng nước hỏi bà hàng nước người bị chém đầu có sống nổi
hay không? Bà hàng nước nói: Không thể! Đế Thích liền bỏ rơi đầu, ngã vật xuống
chết.
Dân làng chưa kịp mai tang, thì sáng hôm sau đã thấy mối đùn
thành mộ. Dân làng Tổ Cầu đang ngạc nhiên thì tự nhiên thấy trời đất tối sầm,
mưa to gió lớn, sét đánh ngọn cây đa, tách rơi xuống một thần bài bằng đồng.
Trời tạnh, cụ đồ ra đọc thấy khắc: “ Diêm La Vương Đế Thích
có phẩm rất cao trên thiên đình, cưỡi lân xanh xuống trần làm Minh Vương, thác
xuống ở đây, Ngọc Hoàng cho làm thành Hoàng ba làng Tổ Cầu, Hào Kiệt, Lương Kiệt
để giúp dân diệt trừ thủy khấu.”
- Dân ba làng lập đền
chính, gần nơi có mộ xây đình lớn cho dân ba xã tổ chức lễ hội tại đình. Ngoài
ra 7 thôn nhỏ của xã Lương Kiệt và Hào Kiệt cũng lập đền thờ. Khi dựng xong
đình ba xã, Đế Thích Diêm La Vương đã có bài thơ giáng bút:
Sử sách Nam Tào đã rõ ràng
Ngọc Hoàng cho giáng xuống trần gian
Đời đời vua sáng ngời nghĩa khí
Xem xét địa ngục rõ tâm can
Cưỡi lân dạo biển bay mà sống
Biển hỏa người – Thần trốn nhân gian
Uy linh ngời ngợi tài văn võ
Chính trực, thông minh đã rõ rang
Nguồn:
1. Bùi Văn Tam: Địa chí văn hóa huyện Vụ Bản,
Nxb. Thông tin và truyền thông Hà Nội 2016
2. Nhiều tác giả: Những phát hiện mới về
khảo cổ học Kỷ yếu hội nghị thông báo hàng năm, từ 1985 đến 2018, Nxb. Khoa học
xã hội, H.
3. Địa chí tỉnh Nam Định – UBND tỉnh Nam Định
xuất bản năm 2003