Đền được toạ lạc trên đỉnh một quả đồi. Ở cuối thôn Thanh Lanh, xã Trung Mỹ, huyện Bình Xuyên. Đền nhìn về hướng Tây Nam, phía trước là những xóm làng quần tụ và cánh đồng trù phú trong một thung lũng rộng, xung quanh bao bọc dãy núi thấp thường được gọi là dãy Đá Đen. Bên phải và phía sau là hồ chứa nước Thanh Lanh, bên trái là dãy núi Trung Sô, nối liền với núi non trùng điệp thuộc sơn hệ Tam Đảo.
Đền toạ lạc trên đỉnh một quả đồi. Ở cuối thôn Thanh Lanh,
xã Trung Mỹ, huyện Bình Xuyên. Đền nhìn về hướng Tây Nam, phía trước là những
xóm làng quần tụ và cánh đồng trù phú trong một thung lũng rộng, xung quanh bao
bọc dãy núi thấp thường được gọi là dãy Đá Đen. Bên phải và phía sau là hồ chứa
nước Thanh Lanh, bên trái là dãy núi Trung Sô, nối liền với núi non trùng điệp
thuộc sơn hệ Tam Đảo.
Đền Thượng được xây dựng vào khoảng đầu thế kỷ XVIII thời Lê
Trung Hưng. Đền thờ 4 vị sơn thần là: Tản Viên Sơn Thánh, Cao Sơn Đại Vương,
Quý Minh Đại Vương, U Sơn Đại Vương. Theo truyền thuyết, Tản Viên Sơn Thánh là
con rể của vua Hùng thứ 18 và là Thống lĩnh quân đội triều Hùng Vương 18, nhị
sơn thần Cao Sơn đại vương, Quý Minh đại vương vừa là em, vừa là hai bộ tướng
thân cận của Thánh Tản Viên.
Tam vị sơn thánh đều có công lớn trong thời kỳ dựng nước của
nhân dân ta. Riêng vị thần U Sơn Đại vương không có thần tích rõ ràng, có lẽ là
một vị thần linh "bản địa' xuất
phát từ tín ngưỡng thờ thần núi ứng với việc cai quản vùng đồi núi thâm sâu
cùng cốc này. Ngài được tôn là "U Sơn tôn thần" xếp sau Sơn thánh Tản
Viên, Cao Sơn Đại vương, Quý Minh Đại vương và thờ phụng làm thành hoàng làng.
Sau này trong việc thờ tự ở đền Thượng đã bổ sung thêm tín
ngưỡng thờ mẫu để đáp ứng nhu cầu tâm linh, tín ngưỡng của nhân dân trong vùng.
Mặt bằng đền có kết cấu hình chữ nhị(=) gồm: Toà tiền tế 3 gian, kích thước
3,7m x 6m, tường hồi bít đốc. Vì kèo ở đây được làm theo kiểu thức quá giang gối
tường.
Mái ngói với bốn đầu đao cong. Trên nóc có đắp hình lưỡng
long chầu nhật. Hai bên toà tiền tế có hai cánh phong trụ biểu . Trên bờ cánh
phong đặt đôi sấu đá được trạm khắc khá tinh xảo Trụ biểu được trang trí đơn giản
với các hình vẽ hoa văn hoa chanh, cánh dơi, và đắp nổi hình mặt hổ phù và chim
phượng chụm đuôi múa, đầu quay ra 4 phía.
Toà trung tế gắn với hậu cung kiểu chuôi vồ: Trưng tế 3 gian
2 chất kích thước 13,6m x 7,2m và hậu cung 2 gian có kích thước 4,6m x 4,im,
xây tường bao bít đốc. Mái trung tế được làm tiêu chồng diêm 2 tầng 8 mái với
các đầu đao đắp hình đầu rồng có bờm tóc toả ra còng vút. Mái lợp ngói mũi truyền
thống. Các vì nóc được làm kiểu chồng rường giá chiêng tỳ lực lên 24 cột
gỗ chắc khoẻ.
Để trang trí cho bộ khung gỗ, những người thợ mộc dân gian
còn trạm khắc các hình rồng, vân xoắn và hoa lá cách điệu lên hầu hết các con rồng,
các kẻ, bẩy, dép hoành và những cấu kiện bằng gỗ khác nhằm làm giảm ấn tượng nặng
nề của bộ mái đồ sộ, đồng thời tăng tính thẩm mỹ cho ngôi đền.
Ngoài các toà kiến trúc chính, phía trước bên trái toà tiền
tế có một nhà hữu mạc, bên trong hiện lưu giữ những mảnh bia vỡ. Bên phải toà
trung tế còn có một nhà phụ dùng làm nơi nấu nướng cơm nước cho nhà đền.
Có thể nói, ngôi đền tuy mới được phục hồi nhưng vẫn mang
dáng dấp một ngôi đền truyền thống. Giá trị kiến trúc của ngôi đền thể hiện ở sự
hài hoà, giữa kiến trúc và tổng thể cảnh quan thiên nhiên, không gian đồi núi
xung quanh, khiến cho ngôi đền có một vẻ đẹp vừa trang nghiêm vừa cao vợi,
khoáng đạt lại vừa gần gũi, gắn bó với cộng đồng làng xã.