Nữ Tướng anh tài của Nhị Vị Thánh Vương Hai Bà Trưng - Thánh Chân công chúa Nữ Tướng anh tài của Nhị Vị Thánh Vương Hai Bà Trưng - Thánh Chân công chúa Anh thư hào kiệt Lê Chân (chữ Hán: 黎真; 20 - 43) danh tướng Nhị vua Hai Bà Trưng, được sắc phong là Thánh Chân Công chúa, dẫn binh cùng Nhị Vương đánh bại Tô Định, làm nên chiến thắng, dành độc lập, chủ quyền dân tộc. Nữ tướng Lê Chân - cuộc đời, cuộc chiến không thành và nơi thờ phụng Trong lịch sử đấu tranh bất khuất chống ngoại xâm của dân tộc, những người phụ nữ quật cường của Việt Nam luôn kề vai sát cánh cùng nam nhân, làm nên những chiến công hiển hách, rạng rỡ lịch sử dân tộc. Năm 40, cuộc khởi nghĩa Nhị vua Hai Bà Trưng bùng nổ, những anh thư hào kiệt Lĩnh Nam là lực lượng then chốt trong lãnh đạo, chỉ huy và chiến đấu. Lê Chân Công chúa là một trong những nữ tướng xuất sắc mà công lao, chiến thắng ghi dấu ấn sâu đậm ở nhiều địa phương từ Quảng Ninh, Hải Phòng, Hà Nội... Tượng đài Công chúa Lê Chân, Chưởng quản binh quyền vùng duyên hải Đền thờ An Biên. Ảnh: Long Vũ Nữ tướng Lê Chân - cuộc đời, hành trạng và nơi thờ phụng Trong lịch sử đấu tranh bất khuất chống ngoại xâm của dân tộc, những người phụ nữ quật cường của Việt Nam luôn kề vai sát cánh cùng nam nhân, làm nên những chiến công hiển hách, rạng rỡ lịch sử dân tộc. Năm 40, cuộc khởi nghĩa Nhị vua Hai Bà Trưng bùng nổ, những anh thư hào kiệt Lĩnh Nam là lực lượng theh chốt trong lãnh đạo, chỉ huy và chiến đấu. Lê Chân Công chúa là một trong những nữ tướng xuất sắc mà công lao, chiến thắng ghi dấu ấn sâu đậm ở nhiều địa phương từ Quảng Ninh, Hải Phòng, Hà Nội... Theo thần tích, truyền thuyết và các tư liệu khác về bà Lê Chân, vào những năm đầu công nguyên nước ta bị nhà Đông Hán (Trung Quốc) chiếm đóng và thống trị. Ở làng An Biên (tên nôm làng Vẻn) huyện Đông Triều, xứ Đông (nay thuộc xã Thủy An, huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh) có ông Lê Đạo làm nghề thầy thuốc, tính nhân từ, hay giúp đỡ người nghèo khó. Vợ ông là Trần Thị Châu cũng là người thuần hậu. Hiềm nỗi, ông bà tuổi đã cao mà chưa có con. Nghe tiếng ngôi chùa ở núi Yên Tử trong huyện rất linh ứng, ông bà tìm đến cầu tự. Quả nhiên, bà Châu có mang, ngày mồng 8 tháng 2 năm Canh Thìn (20) bà sinh con gái khôi ngô, bụ bẫm. Ông, bà đặt tên con là Chân. Năm Lê Chân 18 tuổi, sắc đẹp và đức hạnh của nàng nổi tiếng khắp vùng. Thái thú Tô Định, một kẻ tham tàn, bạo ngược "thấy tiền thì giương mắt lên" đi kinh lý qua Đông Triều. Nghe kẻ nịnh thần tâu bày về sắc đẹp của nàng Lê Chân, Tô Định bèn dùng quyền thế ép nàng làm tì thiếp. Anh thư Lê Chân quyết liệt chống lại. Tức giận, Tô Định giăng bẫy hãm hại cả bố, mẹ nàng. Căm giận quân cướp nước, bà Lê Chân nung nấu căm thù, quyết trả thù nhà, nợ nước. Nàng tìm thày học binh thư, võ nghệ, kết giao với những người cùng chí hướng. Khi võ nghệ tinh thông, nàng cùng bạn bè tâm phúc sang đất An Dương (Hải Phòng), lúc ấy là một vùng đất bãi phù sa mới bồi. Nàng kêu gọi dân tứ xứ khai khẩn đất hoang, lập nên xóm ấp, chiêu tập binh mã, sắm sửa vũ khí, tích trữ lương thảo, sẵn sàng dựng cờ khởi nghĩa. Nghe tin ở xứ Đoài, Hai Bà Trưng cũng đang mưu nghiệp lớn, anh thư hào kiệt Lê Chân chẳng ngại đường sá cách trở tìm đến đất Mê Linh. Bà Trưng Trắc mừng rỡ, phong nàng Lê Chân làm tướng cùng bàn luận kế sách khởi nghĩa rồi phái nàng trở lại quê nhà, chiêu tập thêm người ngựa, chuẩn bị sẵn lương thảo, chờ thời cơ hành động. Tháng 3 năm Canh Tý (40) Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa chống bè lũ xâm lược Đông Hán. Hưởng ứng lời hịch của Hai Bà, thủ lĩnh và nhân dân khắp 4 quận Giao Chỉ (Bắc bộ), Cửu Chân (Bắc Trung Bộ), Nhật Nam (Trung Trung bộ), Hợp Phố (Quảng Tây, Quảng Đông Trung Quốc) nhất tề nổi dậy, phối hợp với bốn đạo quân chủ lực của Hai Bà, triển khai tấn công kẻ xâm lược ở khắp nơi. Đạo quân của Lê Chân từ mạn biển xứ Đông đánh thẳng lên Luy Lâu (Thuận Thành, Bắc Ninh), lỵ sở quận Giao Chỉ, thành trì của bộ máy thống trị của bè lũ Tô Định. Đạo quân của nữ tướng Lê Chân phối hợp với các đạo binh của Hai Bà Trưng và những thủ lĩnh nghĩa quân khác, bao vây tấn công, giải phóng thành trì quận Giao Chỉ. Thảm bại, Tô Định cùng tàn binh cuống cuồng tháo chạy về Nam Hải (Trung Quốc) cầu xin cứu viện. Với khí thế tiến công như vũ bão, chỉ trong 2 tháng, nghĩa quân Hai Bà Trưng chiếm được 65 thành trì, đập tan ách thống trị của nhà Đông Hán. Đất nước sạch bóng quân thù, bà Trưng Trắc được tướng sĩ, nghĩa quân tôn làm vua (Trưng Vương). Trưng Vương xét công lao ban thưởng tướng sĩ. Lê Chân khi ấy 24 tuổi, được phong là Thánh Chân công chúa, ban chức Chưởng quản binh quyền coi giữ vùng hải tần (duyên hải Đông Bắc). Nữ tướng Lê Chân đem quân trở về vùng đất An Dương khi trước, mở thêm trại, ấp lập ra trang An Biên (lấy tên quê gốc). Bà tập trung người khai khẩn đất hoang dọc ven sông Tam Bạc thành đồng ruộng cấy lúa, trồng dâu xanh tốt. Chỉ trong thời gian ngắn, trang An Biên dân cư nhanh chóng đông đúc, kinh tế phát triển, nhiều nhà dân bắt đầu giàu có. Nữ tướng Lê Chân thường xuyên cho binh lính luyện tập võ công, binh pháp, mở những lớp đấu vật, đài thi võ để tìm kiếm và thu phục danh tài, nâng cao sức lực, khả năng chiến đấu của binh sĩ, dân chúng. Trong thời gian bà Trưng Trắc trị vi, nhà Đông Hán phải lo đối phó với biến loạn lớn trong nước, không thể phát quân xâm lược nước Âu Lạc. Song triều đình Hán đã chuẩn bị kỹ cho cuộc đàn áp. Mùa hạ, tháng 4 năm Kiến Vũ thứ 18 (42), vua Quang Vũ phong chức viên tướng kỳ cựu 58 tuổi Mã Viện làm Phục Ba Tướng quân thống suất đại binh sang xâm lược nước ta. Mã Viện xảo quyệt, mưu mô, có tài chinh chiến, dày dạn kinh nghiệm trận mạc. Lực lượng quân sự Đông Hán huy động ở mấy quân phía Nam Trung Quốc, binh lính thiện chiến quen với thung thổ, khí hậu nhiệt đới, khoảng 2 vạn quân chủ lực, 2000 thuyền, xe lớn, ngoài ra còn quân chèo thuyền, dân phu tải lương, phục dịch. Mã Viện chia quân thành hai đạo quân, từ hai đường thủy bộ, dùng thuyền lớn vượt biển, đi theo đường núi, mở đường hơn nghìn dặm. Hai đạo quân thủy, bộ không cách xa nhau, phối hợp chặt chẽ. Từ vùng ven biển vịnh Bái Tử Long, Hạ Long, hai đạo quân thủy, bộ Đông Hán tiến tiềm nhập cửa sông Bạch Đằng (Quảng Ninh - Hải Phòng) để vào nội địa nước ta. Đội quân thường trực phòng thủ ven biển Đông Bắc do Chưởng quản binh quyền, Lê Chân công chúa chỉ huy kịp thời ra quân chặn đánh quyết liệt đoàn chiến thuyền đông đảo của giặc ngay từ cửa sông Bạch Đằng. Theo lệnh của Trưng Vương, nữ tướng Thánh Thiện đem quân chặn giặc nơi biên giới; nữ tướng Bát Nàn chặn cánh quân trên bộ của Mã Viện ở cửa biển, phối hợp với nữ tướng Lê Chân đánh giặc trên sông. Suốt dọc sông Bạch Đằng, Đá Bạc, dưới nước và trên bờ hai đạo quân, đa số là phụ nữ chiến đấu quyết liệt. Lê Chân cho dựng chướng ngại vật trên sông, dùng những chiếc thuyền chiến nhỏ, nhẹ, dễ cơ động tập kích vào mạn sườn đoàn thuyền to lớn, nặng nề của giặc, khiến quân thù tổn thất không ít. Song do quá chênh lệch về lực lượng, trang bị, vũ khí so với địch, nên hai nữ tướng buộc phải lui quân. Đội thuyền binh của Lê Chân nhỏ nhẹ, ngược sông Bạch Đằng tiến rất nhanh, còn binh thuyền của Mã Viện to lớn, nặng nề nên đuổi theo rất chậm. Chẳng mấy chốc quân ta đã bỏ xa quân địch. Theo đường sông Bạch Đằng - Kinh Thầy - sông Đuống, thủy quân của Lê Chân tập kết về vùng hồ Tây, Hoàng Mai bên bờ hữu sông Hồng. Trong thời gian ngắn trú quân ở đây, nữ tướng Lê Chân gấp rút củng cố lực lượng, tuyển thêm binh sĩ, đóng thêm thuyền chiến. Bà cho binh sĩ luyện tập võ nghệ, mở lò đấu vật. Mọi việc đã xong, nữ tướng Lê Chân điều binh hành quân về bảo vệ kinh đô Mê Linh. Chờ đợi không thấy quân Mã Viện tấn công, Hai Bà Trưng đã chủ động tiến quân từ Mê Linh, qua Cổ Loa (Tây Vu), xuống Lãng Bạc đánh quân xâm lược đang đóng tại đây. Quân ta chiến đấu ngoan cường, đội quân tiên phong do nữ tướng Lê Chân chỉ huy tả xung, hữu đột. Bị cầm chân nhiều ngày, quân tướng địch đã có phần nao núng. Nhưng binh lực địch rất mạnh, quân đông, thủy bộ phối hợp lại thành thạo chiến đấu, tên lão tướng Mã Viện lão luyện chỉ huy, nên dần tình thế xoay chuyển. Quân Hai Bà Trưng trang bị thiếu, kinh nghiệm chiến đấu chưa nhiều, không quen đánh tập trung, đôi hình lớn nên thiệt hại nặng, Hai Bà Trưng, nữ tướng Lê Chân và các tướng lĩnh phải chuyển sang hữu ngạn sông Hồng, rút lui về căn cứ Cấm Khê (Kim Khê) - thung lũng suối Vàng ở chân dãy núi Ba Vì (Hà Nội). Đây là vùng núi rừng hiểm trở, ba mặt có sông lớn (sông Đà, sông Hồng, sông Đáy) ở thế thiên hiểm, thuận lợi cho phòng ngự. Phát hiện được căn cứ chính, quân Hán dồn dập kéo tới vây hãm, liên tiếp mở nhiều đợt tấn công. Lực lượng của Hai Bà Trưng kháng cự quyết liệt nhưng dần vào thế bất lợi. Có nguy cơ bị bao vây tiêu diệt. Tình thế nguy ngập, Nhị Vua Hai Bà Trưng và các nữ tướng Lê Chân, nàng Tía, lão tướng Đô Dương đem lực lượng còn lại rút theo hai đường thủy, bộ. Đường thủy theo sông Tích ra sông Đáy. Trước sự truy đuổi ráo riết và không còn binh lực, để bảo toàn khí tiết, Hai Bà Trưng gieo mình xuống sông tự tận. Nữ tướng Lê Chân tiếp tục cùng thủy binh xuôi về nam đồng bằng sông Hồng. Đạo quân của Đô Dương, nàng Tía rút theo đường thượng đạo đi len lỏi dưới chân dãy núi đá vôi 99 ngọn từ Ba Vì, Hòa Bình vào đất hai huyện Kim Bảng, Thanh Liêm (gọi là dãy Nam Công) rồi qua Ninh Bình vào Cửu Chân (Thanh Hóa). Căn cứ Lạt Sơn Sông Đáy - chi lưu bên hữu ngạn sông Hồng, bắt nguồn ở xã Vân Nam (Phúc Thọ, Hà Nội) chảy qua vùng đồng bằng vào đất Hà Nam thì gặp núi ở thôn Vĩnh Sơn (xã Tân Sơn - Kim Bảng) ở cả hai bờ. Sông tiếp tục uốn khúc qua hai xã Khả Phong, Thi Sơn với những khối núi, quả núi độc lập nằm bên hữu ngạn, đến địa phận xã Liên Sơn, Thanh Sơn núi kết thành dải, trùng điệp, cây mọc thành rừng. Từ địa phận thôn Đồng Sơn hiện nay (xã Liên Sơn) cũng bên hữu ngạn sông Đáy, sông Ngân nhận nước sông mẹ, chảy ngoằn ngoèo ven dãy núi qua các thôn Bút Sơn, Lạt Sơn (Thanh Sơn, Kim Bảng), Tân Lâm, Nam Sơn (thị trấn Kiện Khê) rồi đổ nước vào sông Đáy ở địa phận thôn Đò (xã Thanh Thủy) huyện Thanh Liêm. Nữ tướng Lê Chân chọn vùng rừng núi hiểm trở Lạt Sơn làm căn cứ phòng thủ chặn quân Đông Hán, để một bộ phận nghĩa quân của nàng Tía, lão tướng Đô Dương tiếp tục rút về Cửu Chân (Thanh Hóa) vì tuyến đường thượng đạo từ Ba Vì cũng qua đây. Căn cứ Lạt Sơn lưng tựa vào dãy núi hình cánh cung ở phía Tây chạy từ Bắc xuống Nam; trước mặt, phía Đông là sông Đáy, sông Ngân như hai chướng ngại nước. Đền thờ Nữ tướng Lê Chân, thôn Lạt Sơn, xã Thanh Sơn (Kim Bảng). Ảnh: Khương Doanh Địa hình căn cứ tiến có thể đánh, lui có thể giữ, đầu cuối hô ứng lẫn nhau. Trận địa phòng thủ được xây dựng ở các thung lũng trước núi, ở các hang động và các đồi đất lẫn đá kéo dài khoảng 7 km từ Bắc xuống Nam. Các tên thung, núi đồi và ký ức dân gian, dù đã trải qua gần 2.000 năm vẫn giúp đời sau hình dung được những nét cơ bản về căn cứ và những trận đánh cuối cùng của bà Lê Chân. Đầu căn cứ ở phía Bắc, đặt tiền đồn ở thung Mộc Bài, nơi đây bố trí đội quân tiên phong chặn mũi tiến công đầu tiên của quân thù... phía sau Mộc Bài là đồi Dốc voi Trượt nơi bố trí đội tượng binh. Tiếp xuống phía Nam, lần lượt là thung Hóc Bạc có kho lương thực, hậu cần; thung Bể, thung Dâu nơi đóng đại quân. Hang Diêm trên sườn núi phía Nam thung Bể là nơi đặt tổng hành dinh. Phía Tây thung Dâu là núi Thượi cao khoảng 225 m đặt vọng gác, quan sát được toàn bộ căn cứ. Gần núi Thượi có đồi Điểm quân, có lẽ là địa điểm tập hợp kiểm đếm số lượng binh sĩ. Sau thung Dâu là hai thung Đội Nhất, Đội Nhì nơi trú đóng của hai đội quân. Đồi Ông Tượng, điểm cuối căn cứ cách không xa sông Ngân về phía Tây. Cách vị trí đền bà Lê Chân hiện nay khoảng 3 km là thung Trống, nhân dân địa phương giải thích là nơi có lầu trống dùng để đánh cầm canh và hiệu lệnh chiến đấu. Một số địa danh trong khu căn cứ như đồi Dớn, non Tiên, thung Thùng Chạ, đặc biệt hồ Trứng rộng mấy chục mẫu vẫn chưa được làm rõ, Nữ tướng Lê Chân đã sử dụng những địa bàn này với mục đích gì. Cùng với xây dựng căn cứ, nữ tướng Lê Chân gấp rút chiêu mộ thêm binh sĩ chủ yếu là người Lạt Sơn và các vùng lân cận, lập nhiều cơ đội. Đạo quân của Đô Dương đã bổ sung một bộ phận binh sĩ, trong đó có nhiều người họ Dương cho căn cứ Lạt Sơn. Khu du lịch di tích núi Voi Ngay khi căn cứ còn đang trong thời kỳ chuẩn bị, Mã Viện đã đưa quân đến vây hãm, mở nhiều trận tấn công. Nữ tướng Lê Chân tổ chức kháng cự trong các thung và trên sông Ngân. Những trận đánh ác liệt diễn ra, quân ta chiến đấu kiên cường. Biết không đủ lực lượng đánh bại quân thù, hơn nữa lão tướng Đô Dương, nàng Tía đã rút lui an toàn, Nữ tướng Thánh Chân cho binh sĩ bí mật rút khỏi căn cứ, mưu kháng chiến lâu dài, còn Bà và số ít tướng lĩnh, một nhóm quân sĩ tử thủ. Quân giặc nhanh chóng phá vỡ tiền đồn Mộc Bài, tràn vào thung Hiên, thung Bể, dồn nghĩa quân về Đồng Gơ. Trận huyết chiến ác liệt cuối cùng diễn ra ở Đồng Loạn, nữ tướng Lê Chân cùng mấy tướng tâm phúc rút lên núi Giát Dâu. Từ đỉnh núi cao, sườn dốc đứng, nữ tướng Lê Chân gieo mình tự vẫn để không phải sa vào tay giặc, (núi này cách đền bà Lê Chân hiện nay khoảng 3 km về phía Tây). Lúc đó là buổi chiều ngày 13 tháng 7 năm Quí Mão. Sau này, theo truyền thuyêt, một số tướng tâm phúc đã mai táng Bà ở một hang động trong căn cứ. Kháng thành đền thờ Lê chân Công chúa, Chưởng quan binh quyền vùng Duyên hải Đền thờ nữ tướng Lê Chân thôn Lạt Sơn, xã Thanh Sơn, huyện Kim Bảng Hà Nam Normal 0 false false false EN-US X-NONE X-NONE /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-priority:99; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin-top:0in; mso-para-margin-right:0in; mso-para-margin-bottom:10.0pt; mso-para-margin-left:0in; line-height:115%; mso-pagination:widow-orphan; font-size:14.0pt; font-family:"Times New Roman","serif";} Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng in đậm dấu son trong sử sách, trong ký ức dân gian qua nhiều thế hệ. Các nữ tướng, nam thần của cuộc khởi nghĩa đều có đền thờ, được nhân dân đời đời khói hương tưởng kính. Nữ tướng, Thánh Chân công chúa, Chưởng quản binh quyền Lê Chân được nhiều địa phương thờ phụng. Đó là: Đền An Biên (xã Thủy An, Đông Triều, Quảng Ninh) quê hương nữ tướng; đền Nghè (An Biên cổ miếu), đình An Biên (phường An Biên), đình Vẻn ngoài (phường Trại Cau) quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng là nơi Bà khai hoang, lập nên trang ấp, xây dựng lực lượng và chặn đánh cuộc xâm lược của Mã Viện; đình Hoàng Mai (phường Mai Động, quận Hoàng Mai, Hà Nội) nơi bà lập sới vật để rèn luyện quân sĩ. Đặc biệt tại căn cứ Lạt Sơn xưa, từ bao đời nay nhân dân địa phương, khách thập phương xa gần tụ về chiêm bái, đông nhất vào kỳ lễ hội, ngôi đền thờ Bà Lê Chân, tưởng niệm vị nữ tướng anh hùng dành trọn cuộc đời mình vì nghĩa lớn. Cũng nơi đây trên vách đá thung Bể còn lưu lại ba tấm bia niên đại năm 1671, 1672 triều vua Lê Gia Tông thời Hậu Lê, nói đến việc xây chùa Thánh Chân, khởi nguồn là Tiên động Thánh Chân, một bia có khắc hình con hổ, gợi liên tưởng đến sự dũng mãnh như hổ của nữ tướng Lê Chân, điệp thêm sự tôn kính, nâng Bà lên hàng Thánh Mẫu, Phật Mẫu. Không chỉ Quảng Ninh, Hải Phòng, Hà Nội, Hà Nam mà cả nước đều tôn vinh, tưởng niệm nữ tướng Lê Chân, bởi vì bà đã để lại cho hậu thế muôn đời tấm gương chói lọi vì nước, vì dân./. Chú thích: (1) Bia Ma nhai trên vách đá ở thung Bể (Lạt Sơn) có khắc hình con voi thêm một căn cứ về sự có mặt của đội tướng binh. (2) Đô Dương quê làng Dương Xá (nay thuộc thành phố Thanh Hóa). Ông là đô vật nổi tiếng. Đô Dương có nghĩa sau: Đô vừa là đô vật vừa chỉ chức quan võ chỉ huy một đạo quân, Dương là họ, không phải tên.( 3) Bia Lạt Sơn, niên đại 1671 nói đến Tiên động Thánh Chân, phải chăng bà được mai táng tại đây nên mang tên này. Normal 0 false false false EN-US X-NONE X-NONE /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-priority:99; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin-top:0in; mso-para-margin-right:0in; mso-para-margin-bottom:10.0pt; mso-para-margin-left:0in; line-height:115%; mso-pagination:widow-orphan; font-size:14.0pt; font-family:"Times New Roman","serif";} Ths Nguyễn Thy Nga tổng hợp Anh thư hào kiệt Lê Chân (chữ Hán: 黎真; 20 - 43) danh tướng Nhị vua Hai Bà Trưng, được sắc phong là Thánh Chân Công chúa, dẫn binh cùng Nhị Vương đánh bại Tô Định, làm nên chiến thắng, dành độc lập, chủ quyền dân tộc. Nữ tướng Lê Chân - cuộc đời, cuộc chiến không thành và nơi thờ phụng Trong lịch sử đấu tranh bất khuất chống ngoại xâm của dân tộc, những người phụ nữ quật cường của Việt Nam luôn kề vai sát cánh cùng nam nhân, làm nên những chiến công hiển hách, rạng rỡ lịch sử dân tộc. Năm 40, cuộc khởi nghĩa Nhị vua Hai Bà Trưng bùng nổ, những anh thư hào kiệt Lĩnh Nam là lực lượng then chốt trong lãnh đạo, chỉ huy và chiến đấu. Lê Chân Công chúa là một trong những nữ tướng xuất sắc mà công lao, chiến thắng ghi dấu ấn sâu đậm ở nhiều địa phương từ Quảng Ninh, Hải Phòng, Hà Nội... Tượng đài Công chúa Lê Chân, Chưởng quản binh quyền vùng duyên hải Đền thờ An Biên. Ảnh: Long Vũ Nữ tướng Lê Chân - cuộc đời, hành trạng và nơi thờ phụng Trong lịch sử đấu tranh bất khuất chống ngoại xâm của dân tộc, những người phụ nữ quật cường của Việt Nam luôn kề vai sát cánh cùng nam nhân, làm nên những chiến công hiển hách, rạng rỡ lịch sử dân tộc. Năm 40, cuộc khởi nghĩa Nhị vua Hai Bà Trưng bùng nổ, những anh thư hào kiệt Lĩnh Nam là lực lượng theh chốt trong lãnh đạo, chỉ huy và chiến đấu. Lê Chân Công chúa là một trong những nữ tướng xuất sắc mà công lao, chiến thắng ghi dấu ấn sâu đậm ở nhiều địa phương từ Quảng Ninh, Hải Phòng, Hà Nội... Theo thần tích, truyền thuyết và các tư liệu khác về bà Lê Chân, vào những năm đầu công nguyên nước ta bị nhà Đông Hán (Trung Quốc) chiếm đóng và thống trị. Ở làng An Biên (tên nôm làng Vẻn) huyện Đông Triều, xứ Đông (nay thuộc xã Thủy An, huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh) có ông Lê Đạo làm nghề thầy thuốc, tính nhân từ, hay giúp đỡ người nghèo khó. Vợ ông là Trần Thị Châu cũng là người thuần hậu. Hiềm nỗi, ông bà tuổi đã cao mà chưa có con. Nghe tiếng ngôi chùa ở núi Yên Tử trong huyện rất linh ứng, ông bà tìm đến cầu tự. Quả nhiên, bà Châu có mang, ngày mồng 8 tháng 2 năm Canh Thìn (20) bà sinh con gái khôi ngô, bụ bẫm. Ông, bà đặt tên con là Chân. Năm Lê Chân 18 tuổi, sắc đẹp và đức hạnh của nàng nổi tiếng khắp vùng. Thái thú Tô Định, một kẻ tham tàn, bạo ngược "thấy tiền thì giương mắt lên" đi kinh lý qua Đông Triều. Nghe kẻ nịnh thần tâu bày về sắc đẹp của nàng Lê Chân, Tô Định bèn dùng quyền thế ép nàng làm tì thiếp. Anh thư Lê Chân quyết liệt chống lại. Tức giận, Tô Định giăng bẫy hãm hại cả bố, mẹ nàng. Căm giận quân cướp nước, bà Lê Chân nung nấu căm thù, quyết trả thù nhà, nợ nước. Nàng tìm thày học binh thư, võ nghệ, kết giao với những người cùng chí hướng. Khi võ nghệ tinh thông, nàng cùng bạn bè tâm phúc sang đất An Dương (Hải Phòng), lúc ấy là một vùng đất bãi phù sa mới bồi. Nàng kêu gọi dân tứ xứ khai khẩn đất hoang, lập nên xóm ấp, chiêu tập binh mã, sắm sửa vũ khí, tích trữ lương thảo, sẵn sàng dựng cờ khởi nghĩa. Nghe tin ở xứ Đoài, Hai Bà Trưng cũng đang mưu nghiệp lớn, anh thư hào kiệt Lê Chân chẳng ngại đường sá cách trở tìm đến đất Mê Linh. Bà Trưng Trắc mừng rỡ, phong nàng Lê Chân làm tướng cùng bàn luận kế sách khởi nghĩa rồi phái nàng trở lại quê nhà, chiêu tập thêm người ngựa, chuẩn bị sẵn lương thảo, chờ thời cơ hành động. Tháng 3 năm Canh Tý (40) Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa chống bè lũ xâm lược Đông Hán. Hưởng ứng lời hịch của Hai Bà, thủ lĩnh và nhân dân khắp 4 quận Giao Chỉ (Bắc bộ), Cửu Chân (Bắc Trung Bộ), Nhật Nam (Trung Trung bộ), Hợp Phố (Quảng Tây, Quảng Đông Trung Quốc) nhất tề nổi dậy, phối hợp với bốn đạo quân chủ lực của Hai Bà, triển khai tấn công kẻ xâm lược ở khắp nơi. Đạo quân của Lê Chân từ mạn biển xứ Đông đánh thẳng lên Luy Lâu (Thuận Thành, Bắc Ninh), lỵ sở quận Giao Chỉ, thành trì của bộ máy thống trị của bè lũ Tô Định. Đạo quân của nữ tướng Lê Chân phối hợp với các đạo binh của Hai Bà Trưng và những thủ lĩnh nghĩa quân khác, bao vây tấn công, giải phóng thành trì quận Giao Chỉ. Thảm bại, Tô Định cùng tàn binh cuống cuồng tháo chạy về Nam Hải (Trung Quốc) cầu xin cứu viện. Với khí thế tiến công như vũ bão, chỉ trong 2 tháng, nghĩa quân Hai Bà Trưng chiếm được 65 thành trì, đập tan ách thống trị của nhà Đông Hán. Đất nước sạch bóng quân thù, bà Trưng Trắc được tướng sĩ, nghĩa quân tôn làm vua (Trưng Vương). Trưng Vương xét công lao ban thưởng tướng sĩ. Lê Chân khi ấy 24 tuổi, được phong là Thánh Chân công chúa, ban chức Chưởng quản binh quyền coi giữ vùng hải tần (duyên hải Đông Bắc). Nữ tướng Lê Chân đem quân trở về vùng đất An Dương khi trước, mở thêm trại, ấp lập ra trang An Biên (lấy tên quê gốc). Bà tập trung người khai khẩn đất hoang dọc ven sông Tam Bạc thành đồng ruộng cấy lúa, trồng dâu xanh tốt. Chỉ trong thời gian ngắn, trang An Biên dân cư nhanh chóng đông đúc, kinh tế phát triển, nhiều nhà dân bắt đầu giàu có. Nữ tướng Lê Chân thường xuyên cho binh lính luyện tập võ công, binh pháp, mở những lớp đấu vật, đài thi võ để tìm kiếm và thu phục danh tài, nâng cao sức lực, khả năng chiến đấu của binh sĩ, dân chúng. Trong thời gian bà Trưng Trắc trị vi, nhà Đông Hán phải lo đối phó với biến loạn lớn trong nước, không thể phát quân xâm lược nước Âu Lạc. Song triều đình Hán đã chuẩn bị kỹ cho cuộc đàn áp. Mùa hạ, tháng 4 năm Kiến Vũ thứ 18 (42), vua Quang Vũ phong chức viên tướng kỳ cựu 58 tuổi Mã Viện làm Phục Ba Tướng quân thống suất đại binh sang xâm lược nước ta. Mã Viện xảo quyệt, mưu mô, có tài chinh chiến, dày dạn kinh nghiệm trận mạc. Lực lượng quân sự Đông Hán huy động ở mấy quân phía Nam Trung Quốc, binh lính thiện chiến quen với thung thổ, khí hậu nhiệt đới, khoảng 2 vạn quân chủ lực, 2000 thuyền, xe lớn, ngoài ra còn quân chèo thuyền, dân phu tải lương, phục dịch. Mã Viện chia quân thành hai đạo quân, từ hai đường thủy bộ, dùng thuyền lớn vượt biển, đi theo đường núi, mở đường hơn nghìn dặm. Hai đạo quân thủy, bộ không cách xa nhau, phối hợp chặt chẽ. Từ vùng ven biển vịnh Bái Tử Long, Hạ Long, hai đạo quân thủy, bộ Đông Hán tiến tiềm nhập cửa sông Bạch Đằng (Quảng Ninh - Hải Phòng) để vào nội địa nước ta. Đội quân thường trực phòng thủ ven biển Đông Bắc do Chưởng quản binh quyền, Lê Chân công chúa chỉ huy kịp thời ra quân chặn đánh quyết liệt đoàn chiến thuyền đông đảo của giặc ngay từ cửa sông Bạch Đằng. Theo lệnh của Trưng Vương, nữ tướng Thánh Thiện đem quân chặn giặc nơi biên giới; nữ tướng Bát Nàn chặn cánh quân trên bộ của Mã Viện ở cửa biển, phối hợp với nữ tướng Lê Chân đánh giặc trên sông. Suốt dọc sông Bạch Đằng, Đá Bạc, dưới nước và trên bờ hai đạo quân, đa số là phụ nữ chiến đấu quyết liệt. Lê Chân cho dựng chướng ngại vật trên sông, dùng những chiếc thuyền chiến nhỏ, nhẹ, dễ cơ động tập kích vào mạn sườn đoàn thuyền to lớn, nặng nề của giặc, khiến quân thù tổn thất không ít. Song do quá chênh lệch về lực lượng, trang bị, vũ khí so với địch, nên hai nữ tướng buộc phải lui quân. Đội thuyền binh của Lê Chân nhỏ nhẹ, ngược sông Bạch Đằng tiến rất nhanh, còn binh thuyền của Mã Viện to lớn, nặng nề nên đuổi theo rất chậm. Chẳng mấy chốc quân ta đã bỏ xa quân địch. Theo đường sông Bạch Đằng - Kinh Thầy - sông Đuống, thủy quân của Lê Chân tập kết về vùng hồ Tây, Hoàng Mai bên bờ hữu sông Hồng. Trong thời gian ngắn trú quân ở đây, nữ tướng Lê Chân gấp rút củng cố lực lượng, tuyển thêm binh sĩ, đóng thêm thuyền chiến. Bà cho binh sĩ luyện tập võ nghệ, mở lò đấu vật. Mọi việc đã xong, nữ tướng Lê Chân điều binh hành quân về bảo vệ kinh đô Mê Linh. Chờ đợi không thấy quân Mã Viện tấn công, Hai Bà Trưng đã chủ động tiến quân từ Mê Linh, qua Cổ Loa (Tây Vu), xuống Lãng Bạc đánh quân xâm lược đang đóng tại đây. Quân ta chiến đấu ngoan cường, đội quân tiên phong do nữ tướng Lê Chân chỉ huy tả xung, hữu đột. Bị cầm chân nhiều ngày, quân tướng địch đã có phần nao núng. Nhưng binh lực địch rất mạnh, quân đông, thủy bộ phối hợp lại thành thạo chiến đấu, tên lão tướng Mã Viện lão luyện chỉ huy, nên dần tình thế xoay chuyển. Quân Hai Bà Trưng trang bị thiếu, kinh nghiệm chiến đấu chưa nhiều, không quen đánh tập trung, đôi hình lớn nên thiệt hại nặng, Hai Bà Trưng, nữ tướng Lê Chân và các tướng lĩnh phải chuyển sang hữu ngạn sông Hồng, rút lui về căn cứ Cấm Khê (Kim Khê) - thung lũng suối Vàng ở chân dãy núi Ba Vì (Hà Nội). Đây là vùng núi rừng hiểm trở, ba mặt có sông lớn (sông Đà, sông Hồng, sông Đáy) ở thế thiên hiểm, thuận lợi cho phòng ngự. Phát hiện được căn cứ chính, quân Hán dồn dập kéo tới vây hãm, liên tiếp mở nhiều đợt tấn công. Lực lượng của Hai Bà Trưng kháng cự quyết liệt nhưng dần vào thế bất lợi. Có nguy cơ bị bao vây tiêu diệt. Tình thế nguy ngập, Nhị Vua Hai Bà Trưng và các nữ tướng Lê Chân, nàng Tía, lão tướng Đô Dương đem lực lượng còn lại rút theo hai đường thủy, bộ. Đường thủy theo sông Tích ra sông Đáy. Trước sự truy đuổi ráo riết và không còn binh lực, để bảo toàn khí tiết, Hai Bà Trưng gieo mình xuống sông tự tận. Nữ tướng Lê Chân tiếp tục cùng thủy binh xuôi về nam đồng bằng sông Hồng. Đạo quân của Đô Dương, nàng Tía rút theo đường thượng đạo đi len lỏi dưới chân dãy núi đá vôi 99 ngọn từ Ba Vì, Hòa Bình vào đất hai huyện Kim Bảng, Thanh Liêm (gọi là dãy Nam Công) rồi qua Ninh Bình vào Cửu Chân (Thanh Hóa). Căn cứ Lạt Sơn Sông Đáy - chi lưu bên hữu ngạn sông Hồng, bắt nguồn ở xã Vân Nam (Phúc Thọ, Hà Nội) chảy qua vùng đồng bằng vào đất Hà Nam thì gặp núi ở thôn Vĩnh Sơn (xã Tân Sơn - Kim Bảng) ở cả hai bờ. Sông tiếp tục uốn khúc qua hai xã Khả Phong, Thi Sơn với những khối núi, quả núi độc lập nằm bên hữu ngạn, đến địa phận xã Liên Sơn, Thanh Sơn núi kết thành dải, trùng điệp, cây mọc thành rừng. Từ địa phận thôn Đồng Sơn hiện nay (xã Liên Sơn) cũng bên hữu ngạn sông Đáy, sông Ngân nhận nước sông mẹ, chảy ngoằn ngoèo ven dãy núi qua các thôn Bút Sơn, Lạt Sơn (Thanh Sơn, Kim Bảng), Tân Lâm, Nam Sơn (thị trấn Kiện Khê) rồi đổ nước vào sông Đáy ở địa phận thôn Đò (xã Thanh Thủy) huyện Thanh Liêm. Nữ tướng Lê Chân chọn vùng rừng núi hiểm trở Lạt Sơn làm căn cứ phòng thủ chặn quân Đông Hán, để một bộ phận nghĩa quân của nàng Tía, lão tướng Đô Dương tiếp tục rút về Cửu Chân (Thanh Hóa) vì tuyến đường thượng đạo từ Ba Vì cũng qua đây. Căn cứ Lạt Sơn lưng tựa vào dãy núi hình cánh cung ở phía Tây chạy từ Bắc xuống Nam; trước mặt, phía Đông là sông Đáy, sông Ngân như hai chướng ngại nước. Đền thờ Nữ tướng Lê Chân, thôn Lạt Sơn, xã Thanh Sơn (Kim Bảng). Ảnh: Khương DoanhĐịa hình căn cứ tiến có thể đánh, lui có thể giữ, đầu cuối hô ứng lẫn nhau. Trận địa phòng thủ được xây dựng ở các thung lũng trước núi, ở các hang động và các đồi đất lẫn đá kéo dài khoảng 7 km từ Bắc xuống Nam. Các tên thung, núi đồi và ký ức dân gian, dù đã trải qua gần 2.000 năm vẫn giúp đời sau hình dung được những nét cơ bản về căn cứ và những trận đánh cuối cùng của bà Lê Chân. Đầu căn cứ ở phía Bắc, đặt tiền đồn ở thung Mộc Bài, nơi đây bố trí đội quân tiên phong chặn mũi tiến công đầu tiên của quân thù... phía sau Mộc Bài là đồi Dốc voi Trượt nơi bố trí đội tượng binh. Tiếp xuống phía Nam, lần lượt là thung Hóc Bạc có kho lương thực, hậu cần; thung Bể, thung Dâu nơi đóng đại quân. Hang Diêm trên sườn núi phía Nam thung Bể là nơi đặt tổng hành dinh. Phía Tây thung Dâu là núi Thượi cao khoảng 225 m đặt vọng gác, quan sát được toàn bộ căn cứ. Gần núi Thượi có đồi Điểm quân, có lẽ là địa điểm tập hợp kiểm đếm số lượng binh sĩ. Sau thung Dâu là hai thung Đội Nhất, Đội Nhì nơi trú đóng của hai đội quân. Đồi Ông Tượng, điểm cuối căn cứ cách không xa sông Ngân về phía Tây. Cách vị trí đền bà Lê Chân hiện nay khoảng 3 km là thung Trống, nhân dân địa phương giải thích là nơi có lầu trống dùng để đánh cầm canh và hiệu lệnh chiến đấu. Một số địa danh trong khu căn cứ như đồi Dớn, non Tiên, thung Thùng Chạ, đặc biệt hồ Trứng rộng mấy chục mẫu vẫn chưa được làm rõ, Nữ tướng Lê Chân đã sử dụng những địa bàn này với mục đích gì. Cùng với xây dựng căn cứ, nữ tướng Lê Chân gấp rút chiêu mộ thêm binh sĩ chủ yếu là người Lạt Sơn và các vùng lân cận, lập nhiều cơ đội. Đạo quân của Đô Dương đã bổ sung một bộ phận binh sĩ, trong đó có nhiều người họ Dương cho căn cứ Lạt Sơn. Khu du lịch di tích núi VoiNgay khi căn cứ còn đang trong thời kỳ chuẩn bị, Mã Viện đã đưa quân đến vây hãm, mở nhiều trận tấn công. Nữ tướng Lê Chân tổ chức kháng cự trong các thung và trên sông Ngân. Những trận đánh ác liệt diễn ra, quân ta chiến đấu kiên cường. Biết không đủ lực lượng đánh bại quân thù, hơn nữa lão tướng Đô Dương, nàng Tía đã rút lui an toàn, Nữ tướng Thánh Chân cho binh sĩ bí mật rút khỏi căn cứ, mưu kháng chiến lâu dài, còn Bà và số ít tướng lĩnh, một nhóm quân sĩ tử thủ. Quân giặc nhanh chóng phá vỡ tiền đồn Mộc Bài, tràn vào thung Hiên, thung Bể, dồn nghĩa quân về Đồng Gơ. Trận huyết chiến ác liệt cuối cùng diễn ra ở Đồng Loạn, nữ tướng Lê Chân cùng mấy tướng tâm phúc rút lên núi Giát Dâu. Từ đỉnh núi cao, sườn dốc đứng, nữ tướng Lê Chân gieo mình tự vẫn để không phải sa vào tay giặc, (núi này cách đền bà Lê Chân hiện nay khoảng 3 km về phía Tây). Lúc đó là buổi chiều ngày 13 tháng 7 năm Quí Mão. Sau này, theo truyền thuyêt, một số tướng tâm phúc đã mai táng Bà ở một hang động trong căn cứ. Kháng thành đền thờ Lê chân Công chúa, Chưởng quan binh quyền vùng Duyên hải Đền thờ nữ tướng Lê Chân thôn Lạt Sơn, xã Thanh Sơn, huyện Kim Bảng Hà Nam Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng in đậm dấu son trong sử sách, trong ký ức dân gian qua nhiều thế hệ. Các nữ tướng, nam thần của cuộc khởi nghĩa đều có đền thờ, được nhân dân đời đời khói hương tưởng kính. Nữ tướng, Thánh Chân công chúa, Chưởng quản binh quyền Lê Chân được nhiều địa phương thờ phụng. Đó là: Đền An Biên (xã Thủy An, Đông Triều, Quảng Ninh) quê hương nữ tướng; đền Nghè (An Biên cổ miếu), đình An Biên (phường An Biên), đình Vẻn ngoài (phường Trại Cau) quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng là nơi Bà khai hoang, lập nên trang ấp, xây dựng lực lượng và chặn đánh cuộc xâm lược của Mã Viện; đình Hoàng Mai (phường Mai Động, quận Hoàng Mai, Hà Nội) nơi bà lập sới vật để rèn luyện quân sĩ. Đặc biệt tại căn cứ Lạt Sơn xưa, từ bao đời nay nhân dân địa phương, khách thập phương xa gần tụ về chiêm bái, đông nhất vào kỳ lễ hội, ngôi đền thờ Bà Lê Chân, tưởng niệm vị nữ tướng anh hùng dành trọn cuộc đời mình vì nghĩa lớn. Cũng nơi đây trên vách đá thung Bể còn lưu lại ba tấm bia niên đại năm 1671, 1672 triều vua Lê Gia Tông thời Hậu Lê, nói đến việc xây chùa Thánh Chân, khởi nguồn là Tiên động Thánh Chân, một bia có khắc hình con hổ, gợi liên tưởng đến sự dũng mãnh như hổ của nữ tướng Lê Chân, điệp thêm sự tôn kính, nâng Bà lên hàng Thánh Mẫu, Phật Mẫu. Không chỉ Quảng Ninh, Hải Phòng, Hà Nội, Hà Nam mà cả nước đều tôn vinh, tưởng niệm nữ tướng Lê Chân, bởi vì bà đã để lại cho hậu thế muôn đời tấm gương chói lọi vì nước, vì dân./. Chú thích: (1) Bia Ma nhai trên vách đá ở thung Bể (Lạt Sơn) có khắc hình con voi thêm một căn cứ về sự có mặt của đội tướng binh. (2) Đô Dương quê làng Dương Xá (nay thuộc thành phố Thanh Hóa). Ông là đô vật nổi tiếng. Đô Dương có nghĩa sau: Đô vừa là đô vật vừa chỉ chức quan võ chỉ huy một đạo quân, Dương là họ, không phải tên.(3) Bia Lạt Sơn, niên đại 1671 nói đến Tiên động Thánh Chân, phải chăng bà được mai táng tại đây nên mang tên này. Ths Nguyễn Thy Nga tổng hợp Trở về đầu trang Danh tướng Lê Chân công chúa Thánh mẫu vùng Duyên hải An Biên Lạt Sơn 10 Tổng số:1 lượt 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10