Trong lịch sử đấu tranh bất khuất chống ngoại xâm của dân tộc, phụ nữ Việt Nam luôn song hành cùng nam giới, làm nên những chiến công bất hủ. Năm 40, cuộc khởi nghĩa nhị vua Hai Bà Trưng bùng nổ, những anh thư hào kiệt Việt Nam đóng trở thành những hùng tướng và chiến binh dũng cảm.
Thánh Mẫu Lê Chân là vị nữ tướng xuất sắc, công lao, chiến công
của vị danh tướng lưu dấu ấn sâu đậm ở nhiều địa phương đến tận ngày nay.
Từ Quảng Ninh, Hải Phòng, Hà Nội...
Theo thần tích, truyền thuyết và các tư liệu khác về bà Lê
Chân vào những năm đầu công nguyên nước ta bị nhà Đông Hán (Trung Quốc) thống
trị. Ở làng An Biên (tên nôm làng Vẻn) huyện Đông Triều, xứ Đông (nay thuộc xã
Thủy An, huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh) có ông Lê Đạo làm nghề thầy thuốc,
tính nhân từ, hay giúp đỡ người nghèo khó.
Di tích lịch sử, đền An Biên Đông Triều Quảng Ninh
Vợ ông là Trần Thị Châu cũng là người thuần hậu. Hiềm nỗi,
ông bà tuổi đã cao mà chưa có con. Nghe tiếng ngôi chùa ở núi Yên Tử trong huyện
rất linh ứng, ông bà tìm đến cầu tự.
Quả nhiên, bà Châu có mang, ngày mồng 8 tháng 2 năm Canh
Thìn (20) bà sinh con gái khôi ngô, bụ bẫm. Ông, bà đặt tên con là Chân. Năm Lê
Chân 18 tuổi, sắc đẹp và đức hạnh của nàng nổi tiếng khắp vùng.
Thái thú Tô Định, một kẻ tham tàn, bạo ngược "thấy tiền
thì giương mắt lên" đi kinh lý qua Đông Triều. Nghe kẻ nịnh thần tâu bày về
sắc đẹp của nàng Lê Chân, Tô Định bèn dùng quyền thế ép nàng làm tì thiếp. Lê
Chân dứt khoát chối từ. Tức tối, Tô Định hãm hại cả bố, mẹ nàng.
Căm giận quân cướp nước, nàng Chân nung nấu căm thù, quyết
trả thù nhà, nợ nước. Nàng tìm thày học binh thư, võ nghệ, kết giao với những
người cùng chí hướng. Khi võ nghệ tinh thông, nàng cùng bạn bè tâm phúc sang đất
An Dương (Hải Phòng), lúc ấy là một vùng đất bãi phù sa mới bồi.
Nàng chiêu dân tứ xứ khai khẩn đất hoang, lập nên xóm ấp,
chiêu tập binh mã, sắm sửa vũ khí, tích trữ lương thảo sẵn sàng khởi nghĩa.
Nghe tin ở xứ Đoài, nhị chúa Hai Bà Trưng cũng đang mưu nghiệp
lớn, nữ tướng Lê Chân chẳng ngại đường sá cách trở tìm đến đất Mê Linh. Chúa bà
Trưng Trắc phong Lê Chân làm tướng được cùng bàn luận kế sách khởi nghĩa rồi
phái nàng trở lại quê nhà, chiêu tập thêm binh sĩ, chuẩn bị sẵn lương thảo, chờ
thời cơ hành động.
Tháng 3 năm Canh Tý (40) nhị chúa Hai Bà Trưng phất cờ khởi
nghĩa chống bè lũ thống trị Đông Hán. Hưởng ứng lời hịch của Nhị chúa, thủ lĩnh
và nhân dân khắp 4 quận Giao Chỉ (Bắc bộ), Cửu Chân (Bắc Trung Bộ), Nhật Nam (Trung
Trung bộ), Hợp Phố (Quảng Tây, Quảng Đông Trung Quốc) đã nhất tề nổi dậy, hợp sức
với đạo quân chủ lực của Hai Bà, tấn công địch ở khắp nơi.
Đạo quân của Lê Chân từ mạn biển xứ Đông đánh thốc lên Luy
Lâu (Thuận Thành, Bắc Ninh) lỵ sở quận Giao Chỉ, nơi có bộ máy thống trị của bè
lũ Tô Định, phối hợp với quân của nhị chúa Hai Bà Trưng và các thủ lĩnh nghĩa
quân khác, giải phóng quận thành. Tô Định vội vã tháo chạy về đất Nam Hải
(Trung Quốc) xin quân cứu viện.
Với khí thế tiến công như vũ bão, chỉ trong 2 tháng, nghĩa
quân đã chiếm được 65 thành trì, đập tan ách thống trị của nhà Đông Hán. Đất nước
sạch bóng quân thù, chúa bà Trưng Trắc được tướng sĩ, nghĩa quân tôn làm vua
(Trưng Vương). Trưng Vương xét công lao ban thưởng tướng sĩ. Danh tướng Lê Chân
khi ấy 24 tuổi, được phong là Thánh Chân công chúa, ban chức Chưởng quản binh
quyền coi giữ vùng hải tần (duyên hải Đông Bắc).
Đền thờ Nhị vua Hai Bà Trưng tại Mê Linh, Hà Nội
Nữ tướng Lê Chân đem quân trở về vùng đất An Dương khi trước,
mở thêm trại, ấp lập ra trang An Biên (lấy tên quê gốc). Bà kêu gọi nhân công
khai khẩn đất hoang dọc ven sông Tam Bạc thành đồng ruộng cấy lúa, trồng dâu
xanh tốt. Chỉ trong thời gian ngắn, trang An Biên dân cư trở lên đông đúc, kinh
tế phát triển, nhiều nhà dân giàu có. Danh tướng Lê Chân thường xuyên cho luyện
tập trận thế, mở những lớp đấu vật, đài thi võ để nâng cao sức khỏe, khả
năng chiến đấu của binh sĩ, dân chúng.
Tượng nữ tướng Lê Chân ơ Hải Phòng
Đền Nghè, nơi thờ phụng Thánh Chân Công chúa tại Hải Phòng
Trong thời gian bà Trưng Trắc làm vua, nhà Đông Hán phải lo
đối phó với biến loạn lớn trong nước, nên không thể phát quân xâm lược nước Âu
Lạc. Song triều đình Hán cũng chuẩn bị kỹ lưỡng cho cuộc đàn áp.
Mùa hạ, tháng 4 năm Kiến Vũ thứ 18 (42), vua Hán là Quang Vũ
phong viên lão tướng 58 tuổi Mã Viện là Phục Ba Tướng quân, thống suất quân sĩ
sang xâm lược nước ta. Tướng Mã Viện xảo quyệt, mưu mô, có tài chinh chiến, dày
dạn kinh nghiệm trận mạc và đặc biệt tàn bạo. Lực lượng quân sự Đông Hán huy động
ở các quận phía Nam Trung Quốc binh lính thiện chiến quen với thung thổ, khí hậu
nhiệt đới, lên đến 2 vạn quân chủ lực, 2000 thuyền, xe lớn, ngoài ra còn lực lượng
phu chèo thuyền, dân phu tải lương, phục dịch.
Mã Viện chỉ huy cả hai đạo quân, chia hai đường thủy bộ, vừa
dùng thuyền vượt biển, vừa đi đường ven chân núi phát cây mở đường hơn nghìn dặm;
hai cánh quân thủy, bộ không cách xa nhau lắm để còn liên hệ phối hợp với nhau.
Từ vùng ven biển vịnh Bái Tử Long, Hạ Long, hai đạo quân thủy, bộ Đông Hán tiến
đến cửa sông Bạch Đằng (Quảng Ninh - Hải Phòng) để vào nội địa nước ta.
Đội quân thường trực phòng thủ ven biển Đông Bắc do Chưởng
quản binh quyền Lê Chân chỉ huy kịp thời ra quân chặn đánh quyết liệt đoàn thuyền
binh đông đảo của giặc ngay từ cửa sông Bạch Đằng. Theo lệnh của Trưng Vương
trên bộ nữ tướng Thánh Thiện đem quân lên đánh giặc ở biên giới; nữ tướng Bát
Nàn chặn cánh quân trên bộ của Mã Viện ở cửa biển, phối hợp với nữ tướng Lê
Chân.
Suốt dọc sông Bạch Đằng, Đá Bạc, dưới nước và trên bờ hai đạo
quân, đa số là phụ nữ chiến đấu quyết liệt. Lê Chân cho dựng chướng ngại vật
trên sông, dùng những chiếc thuyền chiến nhỏ, nhẹ, dễ cơ động tập kích vào mạn
sườn đoàn thuyền to lớn, nặng nề của giặc, làm kẻ thù tổn thất nặng nề. Song do
quá chênh lệch về lực lượng, trang bị, vũ khí so với kẻ thù, nên cả thủy bộ,
hai nữ tướng phải lui quân.
Đội thuyền binh của Lê Chân nhỏ nhẹ, ngược sông Bạch Đằng tiến
rất nhanh, còn binh thuyền của Mã Viện to lớn, nặng nề nên đuổi theo chậm. Chẳng
mấy chốc quân ta đã bỏ xa quân địch. Theo đường sông Bạch Đằng - Kinh Thầy -
sông Đuống, thủy quân của Lê Chân tập kết về vùng hồ Tây, Hoàng Mai bên bờ hữu
sông Hồng.
Trong thời gian ngắn trú quân ở đây, nữ tướng Lê Chân gấp
rút củng cố lực lượng, tuyển thêm binh sĩ, đóng thêm thuyền chiến. Bà cho binh
sĩ luyện tập võ nghệ, mở lò đấu vật. Mọi việc đã xong, nữ tướng Lê Chân gấp rút
hành quân về bảo vệ kinh đô Mê Linh.
Chờ đợi không thấy quân Mã Viện tấn công, Hai Bà Trưng đã chủ
động tiến quân từ Mê Linh, qua Cổ Loa (Tây Vu), xuống Lãng Bạc đánh quân xâm lược
đang đóng tại đây.
Quân ta chiến đấu ngoan cường, đội quân tiên phong do nữ tướng
Lê Chân chỉ huy tả xung, hữu đột. Bị cầm chân nhiều ngày, quân tướng địch đã có
phần nao núng. Nhưng kẻ địch còn rất mạnh, quân đông, thủy bộ phối hợp lại thạo
đánh tập trung do tên lão tướng Mã Viện quỉ quyệt chỉ huy, nên dần xoay chuyển
tình thế. Quân nhị vua Hai Bà Trưng trang bị thiếu, kinh nghiệm chiến đấu chưa
nhiều, chưa quen đánh kiểu trận địa nên bị thương vong nặng.
Nhị vua Hai Bà Trưng, nữ tướng Lê Chân và một số tướng lĩnh
phải chuyển sang hữu ngạn sông Hồng, rồi lùi về căn cứ Cấm Khê (Kim Khê) -
thung lũng suối Vàng ở chân dãy núi Ba Vì (Hà Nội). Đây là vùng núi rừng hiểm
trở, ba mặt có sông lớn (sông Đà, sông Hồng, sông Đáy) ở thế thiên hiểm, tốt
cho việc phòng ngự.
Quân thù kéo tới vây hãm, mở nhiều đợt tấn công. Quân ta
kháng cự quyết liệt nhưng dần vào thế bất lợi. Mở đường máu Hai Bà Trưng và các
nữ tướng Lê Chân, nàng Tía, lão tướng Đô Dương đem lực lượng còn lại rút theo
hai đường thủy, bộ. Đường thủy theo sông Tích ra sông Đáy.
Bảo toàn khí tiết, nhị vua Hai Bà Trưng gieo mình xuống sông
tự tận. Nữ tướng Lê Chân tiếp tục cùng thủy binh xuôi về nam đồng bằng sông Hồng.
Đạo quân của Đô Dương, nàng Tía rút theo đường thượng đạo đi len lỏi dưới chân
dãy núi đá vôi 99 ngọn từ Ba Vì, Hòa Bình vào đất hai huyện Kim Bảng, Thanh
Liêm (gọi là dãy Nam Công) rồi qua Ninh Bình vào Cửu Chân (Thanh Hóa).
Đến căn cứ Lạt Sơn
Sông Đáy - chi lưu bên hữu ngạn sông Hồng, bắt nguồn ở xã
Vân Nam (Phúc Thọ, Hà Nội) chảy qua vùng đồng bằng vào đất Hà Nam thì gặp núi ở
thôn Vĩnh Sơn (xã Tân Sơn - Kim Bảng) ở cả hai bờ. Sông tiếp tục uốn khúc qua
hai xã Khả Phong, Thi Sơn với những khối núi, quả núi độc lập nằm bên hữu ngạn,
đến địa phận xã Liên Sơn, Thanh Sơn núi kết thành dải, trùng điệp, cây mọc
thành rừng.
Từ địa phận thôn Đồng Sơn hiện nay (xã Liên Sơn) cũng bên hữu
ngạn sông Đáy, sông Ngân nhận nước sông mẹ, chảy ngoằn ngoèo ven dãy núi qua
các thôn Bút Sơn, Lạt Sơn (Thanh Sơn, Kim Bảng), Tân Lâm, Nam Sơn (thị trấn Kiện
Khê) rồi đổ nước vào sông Đáy ở địa phận thôn Đò (xã Thanh Thủy) huyện Thanh
Liêm.
Nữ tướng Lê Chân đã chọn vùng rừng núi hiểm trở Lạt Sơn để
làm căn cứ phòng thủ chặn quân Đông Hán, để một bộ phận nghĩa quân của nàng
Tía, lão tướng Đô Dương tiếp tục rút về Cửu Chân (Thanh Hóa) vì tuyến đường thượng
đạo từ Ba Vì cũng qua đây.
Căn cứ Lạt Sơn lưng tựa vào dãy núi hình cánh cung ở phía
Tây chạy từ Bắc xuống Nam; trước mặt, phía Đông là sông Đáy, sông Ngân như hai
hào nước. Địa hình căn cứ tiến có thể đánh, lui có thể giữ, đầu cuối hô ứng lẫn
nhau. Trận địa phòng thủ được xây dựng ở các thung lũng trước núi, ở các hang động
và các đồi đất lẫn đá kéo dài khoảng 7 km từ Bắc xuống Nam.
Các tên thung, núi đồi và ký ức dân gian, mặc dù đã trải qua
gần 2.000 năm vẫn giúp đời sau hình dung được những nét cơ bản về căn cứ và những
trận đánh cuối cùng của bà Lê Chân.
Đầu căn cứ ở phía Bắc, đặt tiền đồn ở thung Mộc Bài, nơi đây
bố trí đội quân tiên phong chặn mũi tiến công đầu tiên của quân thù... phía sau
Mộc Bài là đồi Dốc voi Trượt nơi bố trí đội tượng binh(1).
Tiếp xuống phía Nam, lần lượt là thung Hóc Bạc có kho lương
thực, hậu cần; thung Bể, thung Dâu nơi đóng đại quân. Hang Diêm trên sườn núi
phía Nam thung Bể là nơi đặt tổng hành dinh. Phía Tây thung Dâu là núi Thượi
cao khoảng 225 m đặt vọng gác, quan sát được toàn bộ căn cứ.
Gần núi Thượi có đồi Điểm quân, có lẽ là địa điểm tập hợp kiểm
đếm số lượng binh sĩ. Sau thung Dâu là hai thung Đội Nhất, Đội Nhì nơi trú đóng
của hai đội quân.
Đồi Ông Tượng, điểm cuối căn cứ cách không xa sông Ngân về
phía Tây. Cách vị trí đền Thánh Mẫu Lê Chân hiện nay khoảng 3 km là thung Trống,
nhân dân địa phương giải thích là nơi có lầu trống dùng để đánh cầm canh và hiệu
lệnh chiến đấu.
Một số địa danh trong khu căn cứ như đồi Dớn, non Tiên,
thung Thùng Chạ, đặc biệt hồ Trứng rộng mấy chục mẫu cũng chưa xác minh được ý
nghĩa trong thế trận.
Cùng với xây dựng căn cứ, nữ tướng Lê Chân gấp rút chiêu mộ
thêm binh sĩ chủ yếu là người Lạt Sơn và các vùng lân cận, lập nhiều cơ đội. Đạo
quân của Đô Dương đã bổ sung một bộ phận binh sĩ, trong đó có nhiều người họ
Dương cho căn cứ Lạt Sơn(2).
Căn cứ còn chưa vững chắc, Mã Viện đã dồn quân đến vây hãm,
mở nhiều trận tấn công. Nữ tướng Lê Chân tổ chức kháng cự cả trong các thung và
trên sông Ngân. Các trận đánh ác liệt diễn ra, quân ta chiến đấu kiên cường.
Biết không đủ lực lượng đánh bại quân thù, hơn nữa lão tướng
Đô Dương, nàng Tía đã rút lui an toàn, Bà cho binh sĩ bí mật rút khỏi căn cứ để
mưu kháng chiến lâu dài, còn Bà và số ít tướng lĩnh, một bộ phận quân sĩ ở lại
tử thủ. Quân giặc nhanh chóng phá vỡ tiền đồn Mộc Bài, tràn vào thung Hiên,
thung Bể, dồn nghĩa quân về Đồng Gơ.
Trận huyết chiến ác liệt cuối cùng diễn ra ở Đồng Loạn, nữ
tướng Lê Chân cùng các tướng tâm phúc rút lên núi Giát Dâu. Từ đỉnh núi cao, sườn
dốc đứng, nữ tướng Lê Chân gieo mình tự vẫn để khỏi phải sa vào tay giặc, (ngọn
núi này cách đền Thánh Mẫu Lê Chân hiện nay khoảng 3 km về phía Tây).
Thời khắc ấy vào buổi chiều ngày 13 tháng 7 năm Quí Mão
(43). Mấy tướng tâm phúc đã mai táng Bà ở một hang động trong căn cứ(3).
Đền thờ nữ tướng Lê Chân ở thôn Lạt Sơn, xã Thanh Sơn, huyện Kim Bảng, Hà Nam Xã Thanh Sơn, Huyện Kim Bảng, Tỉnh Hà Nam
Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng in đậm dấu son trong sử sách,
trong ký ức dân gian qua nhiều thế hệ. Các nữ tướng, nam thần của cuộc khởi
nghĩa đều có đền thờ, được nhân dân đời đời khói hương tưởng kính.
Nữ tướng, Thánh Chân công chúa, Chưởng quản binh quyền Lê
Chân được nhiều địa phương thờ phụng. Đó là: Đền An Biên (xã Thủy An, Đông Triều,
Quảng Ninh) quê hương nữ tướng; đền Nghè (An Biên cổ miếu), đình An Biên (phường
An Biên), đình Vẻn ngoài (phường Trại Cau) quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng là
nơi Bà khai hoang, lập nên trang ấp, xây dựng lực lượng và chặn đánh cuộc xâm
lược của Mã Viện; đình Hoàng Mai (phường Mai Động, quận Hoàng Mai, Hà Nội)
nơi bà lập sới vật để rèn luyện quân sĩ.
Đặc biệt tại căn cứ Lạt Sơn xưa, từ bao đời nay nhân dân địa
phương, khách thập phương xa gần tụ về chiêm bái, đông nhất vào kỳ lễ hội, ngôi
đền thờ Bà Lê Chân, tưởng niệm vị nữ tướng anh hùng dành trọn cuộc đời mình vì
nghĩa lớn.
Cũng nơi đây, trên vách đá thung Bể còn lưu lại ba tấm bia
niên đại năm 1671, 1672 triều vua Lê Gia Tông thời Hậu Lê, nói đến việc xây
chùa Thánh Chân, khởi nguồn là Tiên động Thánh Chân, một bia có khắc hình con hổ,
gợi liên tưởng đến sự dũng mãnh như hổ của nữ tướng Lê Chân, điệp thêm sự tôn
kính, nâng Bà lên hàng Thánh Mẫu, Phật Mẫu.
Không chỉ Quảng Ninh, Hải Phòng, Hà Nội, Hà Nam mà cả nước đều
tôn vinh, tưởng niệm nữ tướng Lê Chân, bởi vì bà đã để lại cho hậu thế muôn đời
tấm gương chói lọi vì nước, vì dân./.
Chú thích:
(1) Bia Ma Nhai trên vách đá ở thung Bể (Lạt Sơn) có khắc
hình con voi thêm một căn cứ về sự có mặt của đội tướng binh.
(2) Đô Dương quê làng Dương Xá (nay thuộc thành phố Thanh
Hóa). Ông là đô vật nổi tiếng. Đô Dương có nghĩa sau: Đô vừa là đô vật vừa chỉ
chức quan võ chỉ huy một đạo quân, Dương là họ, không phải tên. Bia ma nhai ở
thung Bể (Lạt Sơn) khắc tên nhiều người họ Dương công đức xây chùa Thánh Chân,
gợi liên tưởng về sự tham gia của người họ Dương ở căn cứ Lạt Sơn. Tộc phả họ
Dương ở Lạt Sơn cho biết tổ tiên vốn người Cửu Chân (xã Gia Miêu, huyện Hà
Trung, tỉnh Thanh Hóa).
(3) Bia Lạt Sơn, niên đại 1671 nói đến Tiên động Thánh Chân,
phải chăng bà được mai táng tại đây nên mang tên này.
Tổng hợp: Ths Nguyễn Thy Ngà